Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2017

Thơ Sasha Cherny


Sasha Cherny (tiếng Nga: Саша Чёрный là bút danh của Aleksandr Mikhailovich Glickberg) (13/10/1880 – 5/7/1932) – nhà thơ thế kỉ bạc, nhà văn, dịch giả, nhà phê bình Nga. 

Tiểu sử: 
Sasha Cherny sinh ở Odessa trong một gia đình Do Thái đông con. Bố mẹ phải làm lễ rửa tội ở nhà thờ rất sớm cho Aleksandr để được vào học trường gymnazy nhưng cậu bé thường xuyên bỏ học đi ăn mày. Chuyện này được đăng trên báo và một quan chức có tên là K. K. Rochet hay làm từ thiện ở Zhitomir đã nhận Aleksandr về nuôi dạy. K. K. Rochet là người có ảnh hưởng đến việc phát triển năng khiếu thơ ca của Sasha Cherny. 

Từ năm 1900 đến năm 1902 Sasha Cherny phục vụ trong quân đội và một thời gian ngắn làm việc trong ngành hải quan. Năm 1905 chuyển về Saint – Petersburg và in thơ trào phúng ở các tạp chí: «Зритель», «Альманах», «Журнал», «Маски», «Леший»… Sasha Cherny bắt đầu nổi tiếng từ thời kì này và, như nhà văn Korney Chukovsky viết: “hễ mua được tờ tạp chí mới thì trước hết bạn đọc đi tìm đọc thơ của Sasha Cherny…” 

Từ năm 1906 đến năm 1908 sống ở Đức, học tại Đại học Heidelberg. Trở về Saint-Petersburg Sasha Cherny cộng tác với nhiều tạp chí và báo in hai tập thơ và trở thành nhà văn thiếu nhi cũng nổi tiếng không kém thơ. Những năm Thế chiến I ông tham gia quân đội và viết tập thơ Chiến tranh (Война). Năm 1920, không thừa nhận chính quyền cách mang, ông cùng vợ đi sang sống ở châu Âu (đầu tiên ở Kovno - Litva, sau ở Berlin – Đức) in tác phẩm ở các tạp chí Nga hải ngoại. Từ năm 1924 sống ở Paris và tham gia tích cực vào đời sống văn học của cộng đồng Nga ở Pháp. Năm 1929 ông mua đất xây nhà ở làng La Favière, vùng Provence, miền nam nước Pháp làm nơi qua lại của nhiều văn nghệ sĩ Nga sống ở Pháp. 

Sasha Cherny qua đời ngày 5 tháng 7 năm 1932 sau khi chạy sang giúp chữa cháy ở một trang trại gần nhà, khi trở về ông nằm nghỉ và mãi mãi không còn ngồi dậy. Phần mộ ông hiện ở nghĩa trang Lavandou, miền nam nước Pháp. Ngoài sáng tác thơ văn, ông còn để lại nhiều bản dịch tác phẩm của Heirich Heine, Dehmel Rixard, Knut Hamsun… Đỉnh cao sáng tạo của ông là tập thơ được nhạc sĩ thiên tài Shostakovich phổ nhạc. 

Tác phẩm: 
*Разные мотивы, 1906 
*Сатиры, 1910 
*Тук-Тук, 1913 
*Жажда, 1923 
*Сон профессора Патрашкина, 1924 
*Дневник фокса Микки, 1927 
*Кошачья санатория, 1928 
*Несерьезные рассказы, 1928 
*Чудесное лето, 1929 
*Румяная книжка, 1930 
*Кому в эмиграции жить хорошо, 1931–1932 
*Белка-мореплавательница, 1932 
*Солдатские сказки, 1933 




TÌNH YÊU PHẢI TRỞ THÀNH HẠNH PHÚC 

Tình yêu phải trở thành hạnh phúc 
Đấy là quyền của tình yêu. 
Tình yêu phải là tình yêu đẹp 
Đấy là trí tuệ của tình yêu. 
Thế anh nhìn thấy tình yêu như thế ở đâu? 
Có phải ở các ông nam tào bắc đẩu? 
Hay người ca sĩ trên sân khấu 
Ép vào áo ngực chiếc găng tay 
Đánh lên váng sữa 
Từ tình yêu của họa mi và của ánh trăng? 
Chứ trong những dòng thơ trữ tình 
Thì tình yêu được gieo vần với máu 
Và hầu như đói khát thường xuyên?... 

Anh quì xuống dưới chân Thần ái tình 
Đặt vòng hoa đáng thương kết từ ngải cứu 
Mà anh hái từ trong những mảnh vườn hoang… 

1913

Любовь должна быть счастливой

Любовь должна быть счастливой —
Это право любви.
Любовь должна быть красивой —
Это мудрость любви.
Где ты видел такую любовь?
У господ писарей генерального штаба?
На эстраде, где бритый тенор,
Прижимая к манишке перчатку,
Взбивает сладкие сливки
Из любви, соловья и луны?
В лирических строчках поэтов,
Где любовь рифмуется с кровью
И почти всегда голодна?..

К ногам Прекрасной Любви
Кладу этот жалкий венок из полыни,
Которая сорвана мной в ее опустелых садах...


BÀI THƠ ỨNG KHẨU 

Ngày xưa ta như Tin – Tin 
Nghe lời tiên ta đi tìm chim xanh! 
Và khi người đặt vào cho ta bấc 
Ta say sưa, đắm đuối với chim xanh. 

Ta đuổi theo biết bao dặm đường 
Rồi ta trở về với con Chim Đen! 
Còn Chim Xanh mà ta hằng mong mỏi 
Ở nước ngoài có gặp hở Tin - Tin? 

1909
____________ 
*Tin-Tin (Tyltyl) là nhân vật trong tác phẩm “Chim xanh” của Maurice Maeterlinck (giải Nobel Văn học năm 1911). Bé trai Tyltyl và bé gái Mytyl là con của một tiều phu theo lời tiên Bérylun đi tìm Chim xanh. Nhưng con chim mà họ cho là chim xanh, thực ra không phải như họ nghĩ. Chim xanh ở trong xứ sở Hoài Niệm đã chết từ lâu. Bà ngoại cho họ con chim sáo mà họ cứ ngỡ là Chim xanh nhưng khi họ giã từ xứ sở này thì Chim xanh trở thành đen. Ở trong vương quốc Bóng Tối họ tìm thấy trong vườn Ước Mơ và Ánh sáng ban đêm rất nhiều Chim xanh nhưng những con chim mà họ bắt được đều chết - Tyltyl và Mytyl đã không tìm được con Chim xanh có thể mang lại ánh sáng ban ngày. 

Экспромт

И мы когда-то, как Тиль-Тиль,
Неслись за Синей птицей!
Когда нам вставили фитиль -
Мы увлеклись синицей.

Мы шли за нею много миль -
Вернулись с Черной птицей!
Синицу нашу ты, Тиль-Тиль,
Не встретил за границей?



KHÔNG KÌM NÉN ĐƯỢC 

Người vợ hiền của nhà thơ đã chết 
Từng yêu vợ hơn nhuận bút của mình! 
Một nỗi đau điên cuồng và khủng khiếp 
Nhưng nhà thơ không chết bởi đau thương. 

Chôn vợ xong nhà thơ đi về nhà 
Một cảm xúc mới trong lòng dâng ngập 
Và ông vội vàng viết một bài thơ: 
“Người vợ hiền của nhà thơ đã chết”.

1909

Недержание

У поэта умерла жена...
Он ее любил сильнее гонорара!
Скорбь его была безумна и страшна -
Но поэт не умер от удара.

После похорон пришел домой - до дна
Весь охвачен новым впечатленьем -
И спеша родил стихотворенье:

"У поэта умерла жена".


Thơ Nikolai Klyuev


Nikolai Alekseevich Klyuev (tiếng Nga: Никола́й Алексе́евич Клю́ев) (22/10/1884 – 25/10/1937) – là nhà thơ Nga, một đại diện của trường phái “thơ nông thôn” của thi ca Nga thế kỉ XX.

Tiểu sử:
Nikolai Klyuev sinh trong một gia đình nông dân ở làng Koshtugy, tỉnh Olonets. Hồi nhỏ học ở làng quê, sau đó học trung học ở Vytegra và Petropavlovsk. Nikolai Klyuev đi tham quan nhiều nơi ở nước Nga và tham gia nhiều giáo phái khác nhau của đạo Thiên Chúa. Ông cũng là người tích cực hưởng ứng cách mang trong những năm 1905 – 1907. 

Nikolai Klyuev in những bài thơ đầu tiên từ năm 1904, sử dụng phong cách thơ của nhóm hình tượng. Tập thơ đầu tiên Tiếng thông reo (Сосен перезвон) in năm 1911. Thơ của Nikolai Klyuev được các nhà thơ nổi tiếng đương thời như Aleksandr Blok, Valery Bryusov đánh giá cao. Aleksandr Blok có sự ảnh hưởng lớn đến sáng tạo của Nikolai Klyuev. 

Nikolai Klyuev cũng là người có mối quan hệ đặc biệt thân thiết với nhà thơ nổi tiếng Sergei Esenin. Những năm 1915 – 1916 hai người thường xuyên cùng nhau đọc thơ trước công chúng. Sergei Esenin gọi Nikolai Klyuev là “cha đạo dịu dàng” và là người thầy của mình trong những bước đầu tiên. Mặc dù sau đó quan hệ hai người có lúc căng thẳng và phức tạp nhưng Nikolai Klyuev là người có ảnh hưởng đến sáng tạo của Sergei Esenin. Năm 1925 Sergei Esenin tự tử, Nikolai Klyuev in tập thơ Khóc Esenin (Плач по Есенин) in năm 1927.

Năm 1927 ông in trường ca Làng (Деревня) bị phê bình gay gắt vì nỗi buồn nhớ về một “thiên đường” làng quê bị công cuộc công nghiệp hóa giết chết. Năm 1932 Nikolai Klyuev chuyển từ Leningrad về sống ở Moskva. Năm 1934 bị bắt vào trại cải tạo ở Tomsk. Năm 1937 ông bị kết tôi thành lập tổ chức tôn giáo chống chính quyền Xô Viết và bị xử bắn ngày 25 tháng 10 năm 1937 ở Tomsk.

T
ác phẩm:
*Сосен перезвон, 1911
*Братские песни, 1912
*Лесные были, 1913
*Мирские думы, 1916
*Избяные песни, 1920
*Ленин, 1923
*Изба и поле, 1928
*Плач по Есенину, 1927
*Заозерье, 1927


Thư mục:
1. Клюев Н. Сочинения, тт. 1-2. Мюнхен, 1969
2. Клюев Н. Стихотворения и поэмы. Л., 1977
3. Клюев Н. Стихотворения и поэмы. Архангельск, 1989
4. Михайлов А.И. Пути развития новокрестьянской поэзии. Л., 1990
5. Азадовский К.М. Николай Клюев: Путь поэта. Л., 1990
6. Базанов В.Г. С родного берега: О поэзии Клюева. Л., 1990
7. Клюев Н. Стихотворения. М., 1991
8. Шенталинский В. Рабы свободы: В литературных архивах КГБ. М., 1995
9. Николай Клюев: Исследования и материалы. М., 1997
10. Клюев Н. Сердце Единорога: Стихотворения и поэмы. СПб, 1999

Một số bài thơ


BẮT ĐẦU VÀ KẾT THÚC

Tình yêu ta giữa mùa hạ bắt đầu
Rồi kết thúc giữa mùa thu tháng chín.
Trong trang phục thiếu nữ rất đơn giản
Em đến bên anh với một lời chào

Trao cho anh trứng phục sinh màu đ
Màu tượng trưng của máu thắm, của tình
Em đừng vội về phương bắc, chim non
Hãy đợi mùa xuân phương nam nhé!

Khu rừng nhỏ màu xanh nghi ngút khói
Anh và em đều hồi hộp, lặng im
Phía xa xa như có những bức mành
Không nhìn thấy mùa đông đang tàn lụi.

Có những màn sươngcon tim linh cảm
Và âm u chuyển động của rừng xanh
Những dối gian không tránh khỏi, tất nhiên
Của những buổi chiều âm u màu tím. 

Em đừng bay vào sương như chim non
Năm tháng đi vào sương mù màu bạc
Em sẽ trở thành nữ tu tội nghiệp
Vào góc sâu tu viện, trước bậc thềm.

Và có thể khi đó anh đi ngang
Cũng gầy gò và đáng thương như vậy
Em hãy cho anh đôi cánh thiên thần
Đ
bay theo em mà không nhìn thấy. 

Nên em ơi chớ lảng tránh câu chào
Đ
rồi sau không có gì hối hận
Tình yêu ta giữa mùa hạ bắt đầu
Rồi kết thúc giữa mùa thu tháng chín.

1908

Любви начало было летом

Любви начало было летом,
Конец - осенним сентябрем.
Ты подошла ко мне с приветом
В наряде девичьи простом.

Вручила красное яичко
Как символ крови и любви:
Не торопись на север, птичка,
Весну на юге обожди!

Синеют дымно перелески,
Настороженны и немы,
За узорочьем занавески
Не видно тающей зимы.

Но сердце чует: есть туманы,
Движенье смутное лесов,
Неотвратимые обманы
Лилово-сизых вечеров.

О, не лети в туманы пташкой!
Года уйдут в седую мглу -
Ты будешь нищею монашкой
Стоять на паперти в углу.

И, может быть, пройду я мимо,
Такой же нищий и худой...
О, дай мне крылья херувима
Лететь незримо за тобой!

Не обойти тебя приветом,
И не раскаяться потом...
Любви начало было летом,
Конец - осенним сентябрем.


KHÔNG TIN

Hồn không tin vào tiếng gọi màu đen
Với bóng ma của đêm không gặp gỡ.
Em như mùa thu, tốt lành, sáng sủa
Nhưng nghiêm hơn, âu yếm cũng ngắn hơn.

Những con sếu khi bay qua cánh đồng
Với tiếng kêu lê thê dài, thảm thiết
Và đoạn đầu đài sẽ không cách biệt
Em với nỗi buồn như với thiên nhiên.

Và mùa thu không chỉ có một lần
Khóc về emxa xôi không còn nữa
Sau chén rượu say sưa, người đao phủ
Cúi xuống mái đầu nghiệt ngã đáng thương.

1912

Темным зовам не верит душа

Темным зовам не верит душа,
Не летит встречу призракам ночи.
Ты, как осень, ясна, хороша,
Только строже и в ласках короче.

Потянулися с криком в отлет
Журавли над потусклой равниной.
Как с природой, тебя эшафот
Не разлучит с родимой кручиной.

Не однажды под осени плач
О тебе - невозвратно далекой
За разгульным стаканом палач
Головою поникнет жестокой.



NGƯỜI TA BẢO ANH RẰNG EM ĐÃ CHẾT

Người ta bảo anh rằng em đã chết
Cùng với mùa thu lá rụng màu vàng
Và bây giờ rực rỡ ánh hào quang
Ngự trị cơn mưa rừng chưa từng biết.

Anh sẵn sàng quên như người lữ thứ
Từng ngỡ như em to lớn vô cùng
Màu lá đ của mùa thu đã sang
Biết bao lần đã cùng anh ngắm nghía.

Nghe nói rằng em đã không còn nữa
Nhưng liệu có phai tia nắng của tình:
Chẳng lẽ ánh mắtkhông âu yếm của em
Và tia sángkhông nụ hôn em đó?

1913

Мне сказали, что ты умерла

Мне сказали, что ты умерла
Заодно с золотым листопадом
И теперь, лучезарно светла,
Правишь горным, неведомым градом.

Я нездешним забыться готов,
Ты всегда баснословной казалась
И багрянцем осенних листов
Не однажды со мной любовалась.

Говорят, что не стало тебя,
Но любви иссякаемы ль струи:
Разве зори - не ласка твоя,
И лучи - не твои поцелуи?