Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2017

Thơ Boris Chichibabin


Boris Alekceevich Chichibabin (tiếng Nga: Бори́с Алексе́евич Чичиба́бин, họ thật là Polyshin – 09/01/1923 – 14/12/1994) là nhà thơ Nga đoạt giải thưởng Nhà nước Liên Xô 1990. Trong các thập niên từ 1950 đến 1980, Chichibabin là nhà thơ nổi tiếng nhất ở thành phố Kharkov. Từ cuối thập niên 1950 bản thảo thơ của ông được phổ biến khắp Liên Xô cũ. Sự thừa nhận chính thức chỉ đến với ông gần cuối đời, thời kỳ cải tổ.

Tiểu sử:
Boris Chichibabin sinh ở Kremenchuk trong gia đình một sĩ quan quân đội. Học phỏ thông ở Chuguev, tỉnh Kharkov. Họ Chichibabin được lấy từ họ của ông dượng đằng mẹ, viện sĩ Aleksey Evgenyevich Chichibabin – một nhà khoa học trong nghành hóa học. Năm 1940 Boris Chichibabin học khoa sử Đại học Tổng hợp Kharkov nhưng bỏ dở chừng để vào lính, phục vụ tại mặt trận Kapkage.

Năm 1945 ông vào học khoa ngôn ngữ Đại học tổng hợp Kharkov nhưng đến năm 1946 bị bắt đi cải tạo 5 năm vì “tuyên truyền chống lại chính quyền Xô Viết”. Từ năm 1951 làm việc tại nhà hát kịch, sau đó làm ở phòng điều hành tắc-xi, học lớp kế toán và làm việc ở phòng điều hành tàu điện thành phố.

Boris Chichibabin được kết nạp vào Hội Nhà văn Liên Xô năm 1968, đến năm 1973 bị khai trừ vì những phát biểu ở một ngày lễ tại Kharkov, năm 1987 được phục hồi. In thơ từ năm 1958. Đã in các tập thơ: Tuổi trẻ (Молодость, 1963), Giá lạnh và mặt trời (Мороз и солнце, 1963), Hài hòa (Гармония, 1965), Chiến hạm Rạng đông đang đi (Плывет “Аврора”, 1968), Quả chuông (Колокол, 1989), Những người bạn thập kỷ 1960 (Мои шестидесятые, 1990), Thơ và văn xuôi (В стихах и прозе, 1995). Thời kỳ Xô Viết tác phẩm của ông còn được in ở các tạp chí tiếng Nga ở nước ngoài như: “Глагол”, “22”, “Поиски”, “Континент”. 

Các thập niên 1970 – 1980 thơ của Boris Chichibabin được giới trí thức yêu mến vì sự thẳng thắn, không hề giả dối. Thời kỳ cải tổ thơ của ông được các báo và tạp chí in liên tục. Năm 1990 ông được tặng Giải thưởng Nhà nước Liên Xô cho tập thơ Quả chuông. Tác phẩm của Boris Chichibabin được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Belarus, tiếng Ukraine, tiếng Ý, tiếng Séc… và gần đây được dịch ra tiếng Việt.

Boris Chichibabin mất ngày 14 tháng 12 năm 1994 tại Kharkov. Thành phố này đã dựng tượng và đặt tên ông cho một đường phố ở trung tâm thành phố.

Tác phẩm:
- Tuổi trẻ (Молодость, 1963) 
- Giá lạnh và mặt trời (Мороз и солнце, 1963) 
- Hài hòa (Гармония, 1965) 
- Chiến hạm Rạng đông đang đi (Плывет “Аврора”, 1968) 
- Quả chuông (Колокол, 1989) 
- Những người bạn thập kỷ 1960 (Мои шестидесятые, 1990) 
- Thơ và văn xuôi (В стихах и прозе, 1995)
- Dù sao ta đã là một nhà thơ… Những
gì sống động không hề xa lạ (И все-таки я был поэтом... Всему живому не чужой..., 1998) tuyển tập thơ, văn xuôi, thư từ và những bài viết về Boris Chichibabin. 

Thư mục:
• Мороз и солнце. — Харьков, 1963.
• Молодость. — М.: Советский писатель, 1963.
• Гармония. — Харьков, 1965.
• Плывет Аврора: Книга лирики. — Харьков: «Прапор», 1968.
• Колокол: Стихи. — М.: Известия, 1989; М.: «Советский писатель», 1991
 
• Мои шестидесятые. Киев: Дніпро, 1990.
• Цветение картошки: Книга лирики. — М.: Моск. рабочий, 1994
 
• 82 сонета + 28 стихотворений о любви. М., 1994
• В стихах и прозе. Харьков: СП «Каравелла», 1995; Харьков: Фолио, 1998



GIỮA NỖI BUỒN VÀ KHÔNG GÌ CẢ

Giữa nỗi buồn và không gì cả
Chúng ta đã chọn nỗi buồn.
Ai đấy hỏi: “đ làm gì thế?”
Còn ai đấy rằng: “thật đáng thương”.

Hoặc làm dân đen, hoặc đ biết
Và cười lên và vẫy bàn tay.
Không phải thời đ đi giải thích
Hoặc về tĩnh lặng nghĩ suy.

Ta trong đời cho hàng trăm năm
Ta trong đời cho hàng ngàn mảnh đất
Trong ta không tắt ánh sáng thiên đàng
Và men say của trời không khô kiệt.

Và ta sẽ nhận về dấu triện
Của sự chia ly và sự truy lùng
Bằng ánh lửa trả lời tia sáng
Tiếng nhạc lòng đáp lại âm thanh.

Bằng sự tuyệt vọng cho cây thập ác
Và uống vào cả những đắng cay
Ta chuộc lại sự lăng xăng tíu tít
Và thô bạo cuộc đời này.

Ta sẽ bỏ lại nơi đây linh hồn 
Đ
Chúa Trời một khi nào đấy
Tha cho thói kiêu căng sáng tạo
Và tha cho thân xác than phiền.

Và chúng ta vẫn cứ đi như thế
Một khi còn đập những con tim
Và biết rằng con đường kia chẳng có
Những giới hạn hay điểm cuối cùng.

Khi thiên thần vào ta áp sát
Vỗ về bằng sự lặng yên
Thì ta chỉ cần trong mấy phút
Ta sẽ quên đi linh hồn.

Và sau bản trường calần nữa
Sau bút vẽ và sau cả dương cầm
Giữa nỗi buồn và không gì cả
Ta đã chọn lấy nỗi buồn.
1977


Между печалью и ничем

Между печалью и ничем
мы выбрали печаль.
И спросит кто-нибудь «зачем?»,
а кто-то скажет «жаль». 

И то ли чернь, а то ли знать,
смеясь, махнет рукой.
А нам не время объяснять
и думать про покой.

 Нас в мире горсть на сотни лет,
на тысячу земель,
и в нас не меркнет горний свет,
не сякнет Божий хмель. 

Нам – как дышать, – приняв печать
гонений и разлук, –
огнём на искру отвечать 
и музыкой – на звук. 

И обречённостью кресту,
и горечью питья
мы искупаем суету
и грубость бытия. 

Мы оставляем души здесь,
чтоб некогда Господь
простил нам творческую спесь
и ропщущую плоть.

И нам идти, идти, идти,
пока стучат сердца,
и знать, что нету у пути
ни меры, ни конца.

 Когда к нам ангелы прильнут,
лаская тишиной,
мы лишь на несколько минут
забудемся душой. 

И снова – за листы поэм,
за кисти, за рояль, –
между печалью и ничем
избравшие печаль.  



AI GIẬN, AI KINH HOÀNG

Ai giận, ai kinh hoàng
Bởi một điều tai họa
Rằng từng là đồng chí
Giờ đi gọi quí ông.

Thưa quí ông, quí bà
Ngôi nhà ta đ sập
Chỉ có trời biết được
Ta đi đâu bây giờ.

Trong ánh sáng tôi sợ
Nhìn thấy hình ảnh này:
Trên những gương mặt người
Là những mắt thú dữ.

Trong tim không còn giữ
Tình hữu ái ngày xưa
Nga và Ukraina
Đ
ều sợ điều chia rẽ.

Nhưng cái ác rót đầy
Cái chết trong máu nóng
Sự cứu rỗi lúc này
Trong tình yêu, hòa thuận.

Ta sẽ không cúi đầu
Trước ngai vàng, tiền bạc
Mà người hãy yêu nhau
Và yêu bao thứ khác.

Tôi xin phép nói rằng
Ai trong thời hỗn loạn
Không điếc mà yêu thương
Chúa trong lòng vẫn sống.

Và dễ dàng đem quẳng
Nguyền rủa của thời gian
Vũ trụ được chữa lành
Ta trở về cuộc sống.

Hãy thử, hãy yêu thương
Không còn cách nào khác
Như tráng sĩ oai hùng
Chiến thắng bao cái ác.

Và tâm hồn thư thái
Và tu tỉnh đầy vơi.
Không thể yêu một người
Mà không yêu thế giới.
1991


Кто — в панике, кто — в ярости

Кто — в панике, кто — в ярости,
а главная беда,
что были мы товарищи,
а стали господа.

Ох, господа и дамы!
Рассыпался наш дом —
Бог весть теперь куда мы
несемся и бредем.

Боюсь при свете свечек
смотреть на образа:
на лицах человечьих
звериные глаза.

В сердцах не сохранится
братающая высь,
коль русский с украинцем
спасаться разошлись.

Но злом налиты чаши
и смерть уже в крови,
а все спасенье наше
в согласье и любви,

Не стану бить поклоны
ни трону, ни рублю —
в любимую влюбленный
все сущее люблю.

Спешу сказать всем людям,
кто в смуте не оглох,
что если мы полюбим,
то в нас воскреснет Бог.

Сойдет тогда легко с нас
проклятие времен,
и исцеленный космос
мы в жизнь свою вернем.

Попробуйте — влюбитесь,-
иного не дано,-
и станете как витязь,
кем зло побеждено.

С души спадет дремота,
остепенится прыть.
Нельзя, любя кого-то,
весь мир не полюбить.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét