Georgi Victorovich Adamovich (tiếng Nga: Гео́ргий Ви́кторович Адамо́вич) (7-4/1892 –
21-2/1972) là nhà thơ, nhà phê bình, dịch giả.
Tiểu sử:
Georgi Adamovich sinh ra trong gia đình một sĩ quan quân đội, học khoa lịch sử - ngôn ngữ Đại học Saint Petersburg. Năm 1914 bắt đầu làm quen với những nhà thơ phái Đỉnh cao và sau đó tham gia „Xưởng thơ” (Цех поэтов). Là một trong số những học trò của Nikolai Gumilyov. Quyển thơ đầu tiên của Adamovich, Những đám mây (Облака,1916) được Gumilyov đánh giá cao.
Sau cách mạng Tháng Mười, cũng giống như nhiều nhà thơ khác cùng phái Đỉnh cao, Adamovich tập trung cho dịch thuật. Ông dịch các nhà thơ, nhà văn Pháp: Voltaire, Baudelaire, Heredia, dịch các nhà thơ Anh : Thomas Moore, Byron. Năm 1923 ông ra sống ở nước ngoài, đầu tiên sang Berlin, sau đó sang Pháp. Thời kỳ này ông dịch Jean Cocteau, Saint – John Perse và Albert Camus. Năm 1934 ông làm biên tập của tạp chí Gặp gỡ (Встречи) và thành lập nhóm thơ Nốt nhạc Paris (Парижская нота).
Tháng 9 năm 1939 ông gia nhập quân đội Pháp, tham gia phong trào kháng chiến chống phát xít. Năm 1947 ông viết cuốn Một quê hương khác (Другая родина) thể hiện sự ủng hộ Stalin và chính quyền Xô Viết bị coi là sự phản bội đối với những văn nghệ sĩ sống ở nước ngoài. Năm 1967 ông xuất bản cuốn Phê bình (Комментарии) tập hợp nhiều bài phê bình được đánh giá cao. Quyển thơ thứ hai của ông Ở phương Tây (На Западе) in vào năm 1939. Quyển thơ cuối cùng Thống nhất (Единство) in năm 1967 tại Mỹ. Georgi Adamovich mất ngày 21 tháng 2 tại Nice, Pháp.
Tác phẩm:
Thơ:
Những đám mây (Облака,1916)
Tĩnh ngục (Чистилище, 1922)
Ở phương Tây (На Западе, 1939)
Thống nhất (Единство, 1967)
Phê bình:
Một quê hương khác (Другая родина, 1947)
Sự cô đơn và tự do (Одиночество и свобода, 1955)
Về những cuốn sách và tác giả (О книгах и авторах, 1966)
Phê bình (Комментарии, 1967)
Tiểu sử:
Georgi Adamovich sinh ra trong gia đình một sĩ quan quân đội, học khoa lịch sử - ngôn ngữ Đại học Saint Petersburg. Năm 1914 bắt đầu làm quen với những nhà thơ phái Đỉnh cao và sau đó tham gia „Xưởng thơ” (Цех поэтов). Là một trong số những học trò của Nikolai Gumilyov. Quyển thơ đầu tiên của Adamovich, Những đám mây (Облака,1916) được Gumilyov đánh giá cao.
Sau cách mạng Tháng Mười, cũng giống như nhiều nhà thơ khác cùng phái Đỉnh cao, Adamovich tập trung cho dịch thuật. Ông dịch các nhà thơ, nhà văn Pháp: Voltaire, Baudelaire, Heredia, dịch các nhà thơ Anh : Thomas Moore, Byron. Năm 1923 ông ra sống ở nước ngoài, đầu tiên sang Berlin, sau đó sang Pháp. Thời kỳ này ông dịch Jean Cocteau, Saint – John Perse và Albert Camus. Năm 1934 ông làm biên tập của tạp chí Gặp gỡ (Встречи) và thành lập nhóm thơ Nốt nhạc Paris (Парижская нота).
Tháng 9 năm 1939 ông gia nhập quân đội Pháp, tham gia phong trào kháng chiến chống phát xít. Năm 1947 ông viết cuốn Một quê hương khác (Другая родина) thể hiện sự ủng hộ Stalin và chính quyền Xô Viết bị coi là sự phản bội đối với những văn nghệ sĩ sống ở nước ngoài. Năm 1967 ông xuất bản cuốn Phê bình (Комментарии) tập hợp nhiều bài phê bình được đánh giá cao. Quyển thơ thứ hai của ông Ở phương Tây (На Западе) in vào năm 1939. Quyển thơ cuối cùng Thống nhất (Единство) in năm 1967 tại Mỹ. Georgi Adamovich mất ngày 21 tháng 2 tại Nice, Pháp.
Tác phẩm:
Thơ:
Những đám mây (Облака,1916)
Tĩnh ngục (Чистилище, 1922)
Ở phương Tây (На Западе, 1939)
Thống nhất (Единство, 1967)
Phê bình:
Một quê hương khác (Другая родина, 1947)
Sự cô đơn và tự do (Одиночество и свобода, 1955)
Về những cuốn sách và tác giả (О книгах и авторах, 1966)
Phê bình (Комментарии, 1967)
Một số bài thơ
TƯỞNG NHỚ MARINA TSVETAEVA
Ta hãy trò chuyện, dù bây giờ, Marina
Khi sống thì không cần. Giờ chị không còn nữa.
Nhưng mà tôi vẫn nghe giọng thiên nga
Như người báo tin mừng, người đưa tin tai họa.
Khi sống thì không cần. Tôi không buộc tội.
Văn chương là đi vào địa ngục thôi mà
Cửa đi vào – mừng vui không giấu nổi
Nhưng chẳng một ai tìm thấy đường ra.
Tôi không có lỗi. Đời đớn đau nhiều thế.
Và tôi cũng không trách chị điều gì.
Tất cả đều ngẫu nhiên, tất cả đều nô lệ
Sống thật diệu kỳ. Ta sống chẳng ra chi.
Памяти М. Ц.
Поговорить бы хоть теперь, Марина!
При жизни не пришлось. Теперь вас нет.
Но слышится мне голос лебединый,
Как вестник торжества и вестник бед.
При жизни не пришлось. Не я виною.
Литература - приглашенье в ад,
Куда я радостно входил, не скрою,
Откуда никому - путей назад.
Не я виной. Как много в мире боли.
Но ведь и вас я не виню ни в чём.
Всё - по случайности, всё - поневоле.
Как чудно жить. Как плохо мы живём.
THÔI TRÒ CHUYỆN
Thôi trò chuyện và bỏ uống rượu vang
Bỏ lại ngôi nhà, bỏ lại vợ con
Bỏ bạn bè. Linh hồn anh phải hiểu
Rằng không quay lại nữa - cái đã từng.
Thôi yêu quá khứ. Và rồi sau đó
Đến một ngày thôi yêu cả thiên nhiên
Ngày lại ngày hờ hững cùng tất cả
Tuần lại tuần và năm lại theo năm.
Và ngay lập tức sẽ chết những ước mơ
Bóng tối khắp nơi. Và trong đời mới
Khi đó anh sẽ rõ ràng nhìn thấy
Thập ác gỗ và một chiếc mũ gai.
Ни с кем не говори. Не пей вина.
Ни с кем не говори. Не пей вина.
Оставь свой дом. Оставь жену и брата.
Оставь людей. Твоя душа должна
Почувствовать — к былому нет возврата.
Былое надо разлюбить. Потом
Настанет время разлюбить природу,
И быть все безразличней, — день за днем,
Неделю за неделей, год от году.
И медленно умрут твои мечты.
И будет тьма кругом. И в жизни новой
Отчетливо тогда увидишь ты
Крест деревянный и венок терновый.
NGƯỜI TA CẦU XIN…
Người ta cầu xin sự bố thí của em
Người ta nghèo – chìa bàn tay ra đó
Em hãy đáp lại nỗi lòng đau khổ
Bằng nụ cười, bằng ánh mắt, lặng im.
Vả lại, khổ đau vẫn có hân hoan
Em không hiểu. Sự hân hoan chịu nhục
Những đêm không ngủ, có trời biết được
Sung sướng buổi mai, tha thứ gì chăng.
Он милостыни просит у тебя
Он милостыни просит у тебя,
Он - нищий, он протягивает руку.
Улыбкой, взглядом, молча, не любя
Ответь хоть чем-нибудь на эту муку.
А впрочем, в муке и блаженство есть.
Ты не поймёшь. Блаженство униженья,
Слов сгоряча, ночей без сна, бог весть
Чего… Блаженство утра и прощенья.
MỘT NGƯỜI NÓI…
Một người nói: “Quá ít cuộc đời này”
Một người kia: “Mục tiêu không đạt tới”
Còn phụ nữ, theo thói quen, mệt mỏi
Không hề nghe mà chỉ biết đưa nôi.
Và những sợi dây cứ kêu như vậy
Rồi lặng im – mỗi lần dịu dàng hơn!
Như thiên thần đang hát giữa trời xanh
Và nói về tình yêu cùng cô ấy.
Один сказал: "Нам этой жизни мало"
Один сказал: "Нам этой жизни мало",
Другой сказал: "Недостижима цель",
А женщина привычно и устало,
Не слушая, качала колыбель.
И стертые веревки так скрипели,
Так умолкали - каждый раз нежнее! -
Как будто ангелы ей с неба пели
И о любви беседовали с ней.
XIN CÁM ƠN TẤT CẢ
Xin cám ở tất cả. Vì chiến tranh
Vì cách mạng, vì lưu đày, bỏ chạy.
Vì sự hững hờ – về nơi sáng chói
Giờ vất vơ với cuộc sống bần hàn.
Không số kiếp nào ngọt ngào hơn – mất tất cả
Không số phận nào vui hơn – thành kẻ lang thang
Và không bao giờ bạn gần với trời xanh
Bằng ở nơi này, mệt mỏi vì buồn nhớ
Mệt mỏi để thở
Không sức lực, không tiền
Không tình yêu, ở Pa-ri… vậy đó.
За все, за все спасибо. За войну
За все, за все спасибо. За войну,
За революцию и за изгнанье.
За равнодушно - светлую страну,
Где мы теперь "влачим существованье".
Нет доли сладостней - все потеря
Нет радостней судьбы - скитальцем стать,
И никогда ты к небу не был ближе,
Чем здесь, устав скучать,
Устав дышать,
Без сил, без денег,
Без любви, в Париже...
ĐỨC CHÚA TRỜI HỨA BAN…
Chúa Trời hứa ban hạnh phúc cho chúng mình
Đến muôn đời, anh và em! Câu trả lời đáp lại
Nhưng niềm hy vọng và đam mê đang chết đấy.
Thì chẳng Chúa Trời, chẳng hạnh phúc, vĩnh hằng.
Mà chỉ có đám mây lơ lửng giữa không trung
Những vách đá hoang vu và tảng băng tỏa sáng
Những thứ không tên… chẳng khổ đau, buồn chán…
Sẽ cùng với ta trong giờ phút lâm chung.
Навеки блаженство нам Бог обещает!
Навеки блаженство нам Бог обещает!
Навек, я с тобою! – несется в ответ.
Но гибнет надежда. И страсть умирает.
Ни Бога, ни счастья, ни вечности нет.
А есть облака на высоком просторе,
Пустынные скалы, сияющий лед,
И то без названья… ни скука, ни горе…
Что с нами до самого гроба дойдет.
VÌ MỘT LỜI
Vì một lời, một lúc nào đấy nhớ
Và sau đó quên hẳn đến muôn đời
Vì tất cả trong hoàng hôn cháy đỏ
Bạn từng đi tìm mà chẳng tìm ra.
Vì sự vô vọng của những ước mơ
Và cái lạnh lớn dần lên trong ngực
Và vì cái sự đang dần dần chết
Không hy vọng ở phía trước bây giờ.
Vì cái tên màu trắng của cứu rỗi
Và vì cái tên màu đen của tình
Tất cả lỗi lầm đều được tha thứ
Cả những gì là tội ác của anh.
За слово, что помнил когда-то
За слово, что помнил когда-то,
И после навеки забыл,
За всё, что в сгораньях заката
Искал ты и не находил.
И за безысходность мечтанья,
И холод растущий в груди,
И медленное умиранье
Без всяких надежд впереди,
За белое имя спасенья,
За тёмное имя любви
Прощаются все прегрешенья
И все преступленья твои.
CHỈ MỘT THỨ TÔI YÊU
Chỉ một thứ tôi yêu – là giấc mộng
Thật ngọt ngào và yên lặng vô cùng!
Chỉ hơi nghe ra tiếng của cây chuông
Một màu xanh và màn sương bất động…
Ôi, giá như ta biết được rằng chắc chắn
Rằng đời chỉ một, không có lần hai
Rằng trong vĩnh hằng ta ngủ muôn đời
Rằng không bao giờ có ai thức tỉnh.
Единственное, что люблю я — сон.
Единственное, что люблю я — сон.
Какая сладость, тишина какая!
Колоколов чуть слышный перезвон,
Мгла неподвижная, вся голубая…
О, если б можно было твердо знать,
Что жизнь — одна и что второй не будет,
Что в вечности мы будем вечно спать,
Что никогда никто нас не разбудит.
VỚI TẤT CẢ CHÂN THÀNH…
Với tất cả chân thành tôi nói lời
Với nỗi buồn, thay đức tin của tôi…
Tôi đã trao đời mình cho ma quỉ
Bạn đừng làm theo ví dụ của tôi.
Đến một ngày… bạn mệt mỏi nhìn trời
Trong một buổi hoàng hôn rất kỳ diệu.
Những giấc mơ dối lừa đều đi khỏi
Đến một ngày quả báo sẽ dài lâu.
Đừng suy nghĩ với số phận đối đầu
Dù mệt mỏi, cố chấp và căm phẫn
Chỉ một lối thoát – không còn lựa chọn –
Đấy là đem cải đạo lại từ đầu.
Со всею искренностью говорю
Со всею искренностью говорю,
С печалью, заменяющей мне веру…
За призраки я отдал жизнь свою,
Не следуй моему примеру.
Настанет день… Устало взглянешь ты
На небо, в чудотворный час заката.
Исчезнут обманувшие мечты,
Настанет долгая за них расплата.
Не думай противостоять судьбе,
Негодовать, упорствовать, томиться…
Нет выбора – исход один тебе,
Один, единственный: перекреститься.
THƠ GHI VÀO ALBUM
Tôi không hứa hẹn thủy chung gì hết
Bởi lời này chỉ trống rỗng mà thôi.
Thay đổi nghĩ suy, con tim – tôi biết.
Vì điều này người hòa giải với tôi.
Nhưng dù sao, tôi hứa rằng mãi mãi
Sẽ gìn giữ những giấc mơ rụt rè
Và vẻ dịu dàng, tất nhiên, là thứ
Mà em không giữ dù chỉ một giờ.
Стихи в альбом
Я верности тебе не обещаю.
Что значит верность? – Звук пустой.
Изменит ум, изменит сердце, – знаю.
На том и помирись со мной.
Но все-таки я обещаю вечно
Беречь те робкие мечты
И нежность ту, которую, конечно,
Не сбережешь и часу ты.
DẠ KHÚC GỬI IRINA ODOETSEVA
Tôi nhớ về thời tuổi trẻ trong đêm
Tôi không ngủ… Giờ thứ ba đang gõ
Và thật lạ lùng, trong cơn mất ngủ
Tôi lại đi suy nghĩ, nhớ về em.
Tôi muốn gửi tặng cho em bông hồng
Tất cả niềm vui. Không hề cay đắng.
Em hãy sống trong màn sương màu hồng
Như năm em mười tám.
1971
Мадригал Ирине Одоевцевой
Ночами молодость мне помнится,
Не спится… Третий час.
И странно, в горестной бессоннице
Я думаю о Вас.
Хочу послать я розы Вам,
Все – радость. Горя нет.
Живете же в тумане розовом,
Как в 18 лет.
TA MỆT MỎI VÌ LỜI
Ta mệt mỏi vì lời, vì công việc
Và quả thật, chỉ nỗi sợ còn đây…
Một con chim lượn lờ, rồi chim bay
Biết làm sao giờ, trong mây tìm bắt!
Những ngày đầu, những lần đầu gặp mặt
Chỉ còn để lại một dấu vết vàng…
Tôi vẫn nhớ về buổi chiều hạnh phúc
Tôi bước đi – còn nhà đã trống không.
Chỉ mặt trời chiếu trên thế giới buồn
Quên ở đâu – không có gì quên cả
Những đêm bẩn thỉu ở trong quán rượu
Ai đó giữa tiệc rượu, những bài ca
Đột ngột đứng lên: “Chào cái chết của ta!”
Мы так устали от слов и дела…
Мы так устали от слов и дела,
И, правда, остался только страх…
Вспорхнула птица и улетела,
Что же, – лови ее в облаках!
Первые дни и первые встречи
Оставили только след золотой…
Я помню, был блаженный вечер,
Иду, – а домик давно пустой.
Лишь солнце плывет над грустным миром,
Где забыть, – забыть ничего нельзя,
Этих грязных ночей в хулиганских трактирах,
Где кто-нибудь вдруг среди песен и пира,
Встает: «Здравствуй, смерть моя!»
ÔI CUỘC ĐỜI TA
Ôi cuộc đời ta! Không cần cảnh lăng xăng
Không cần thở than – tất cả đều trống rỗng
Yên bình xuống thế gian – hãy tìm sự yên bình.
Tôi muốn để cho tuyết rơi thật dày
Bầu trời trải một màu xanh vô tận
Để cho tôi sống và tôi cảm nhận
Băng giá trong tim, sương muối trên cây.
О, жизнь моя! Не надо суеты
О, жизнь моя! Не надо суеты,
Не надо жалоб, – это все пустое.
Покой нисходит в мир, – ищи и ты покоя.
Мне хочется, чтоб снег тяжелый лег,
Тянулся небосвод прозрачно-синий,
И чтоб я жил, и чувствовать бы мог
На сердце лед и на деревьях иней.
HÃY ĐI DẠO TRÊN SA MẠC
Hãy đi dạo trên sa mạc mênh mông
Sau tiếng kèn của bình minh dịu dàng
Hãy uống bầu không khí xanh và mặn
Và hãy nhìn những con sóng màu xanh.
Hãy để cho hòn đảo mơ cầu vồng
Và nếu như những giấc mơ đã chán
Không phải cô gái mà là Nữ thần
Đến từ xứ sở pha lê trong sáng.
Nhưng điều này chưa phải là cuộc sống
Khi trên ngọn sóng tái nhợt đi sai
Thì bạn hạ cánh buồm và cất giọng:
“Thôi đủ rồi. Đến lúc trở về nhà ”?
Гуляй по безбрежной пустыне
Гуляй по безбрежной пустыне
Под нежные трубы зари,
Пей воздух соленый и синий,
На синие волны смотри.
Пусть остров и радуга снится,
А если наскучили сны,
Не девушка, нет – Царь-девица
Придет из хрустальной страны.
Но это не жизнь. И когда же
Над бледно-неверной волной
Ты парус опустишь и скажешь
«Довольно. Пора и домой»?
NIỀM HẠNH PHÚC
Niềm hạnh phúc, thậm chí họ không mơ
Nhưng niềm hạnh phúc đã lừa dối họ.
Chỉ nỗi buồn chán có mặt trên đời.
Mảnh trăng buồn đang nhìn qua cửa sổ.
Họ đang uống trà, họ làm báo chí
Dưới cơn bão tuyết than thở dài lâu
Họ suy nghĩ, suy nghĩ: “Bạn ở đâu
Hở người bạn của tôi giờ đãng trí?”
1919
Им счастие даже не снится
Им счастие даже не снится,
И их обмануло оно.
Есть в мире лишь скука. Глядится
Скучающий месяц в окно.
Пьют чай, разбирают газеты,
Под долгие жалобы вьюг,
И думают, думают: «Где ты,
Теперь, мой забывчивый друг?»
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét