Denis Vasilyevich Davydov (tiếng Nga: Дени́с Васи́льевич
Давы́дов, 27/07/1784 – 04/05/1839) – là vị tướng quân đội Nga Hoàng, anh hùng của cuộc chiến tranh vệ quốc 1812, là nhà sử học, nhà lý luận quân sự, nhà thơ, nhà văn Nga.
Tiểu sử:
Denis Davydov sinh ra trong một gia đình quí tộc lâu đời ở Moskva. Từ nhỏ đã được giáo dục rất đến nơi đến chốn. Từ năm 1801 phục vụ trong trung đoàn kỵ binh Nga Hoàng, tham gia vào các cuộc chiến tranh với Pháp (1806 – 1807), với Thụy Điển (1808 – 1809), với Thổ Nhĩ Kỳ (1809 – 1812). Trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1812 ông là người đề xuất phương án tổ chức chiến tranh du kích trong lòng địch và đã rất thành công với cuộc chiến tranh này. Năm 1814 ông được phong hàm tướng, năm 1823 ra quân và đến năm 1826 trở lại phục vụ quân đội ở vùng Kapkage. Năm 1832 ông về hưu sống ở trang trại tại tỉnh Simbirsk và mất ngày 04 tháng 5 năm 1939 tại đây.
Denis Davydov chưa bao giờ tự nhận mình là một nhà thơ hay nhà văn, ông viết: “Tôi không phải là nhà thơ mà là người du kích, người lính Cô-dắc, tôi là nhà thơ không theo vần điệu mà theo tình cảm tự nhiên”. Mặc dù vậy, ông đã để lại cho đời sau một sự nghiệp văn học đáng kể cả thơ trữ tình lẫn văn xuôi. Nhà phê bình Vissarion Belinsky viết về Denis Davydov: “Ông là một nhà thơ từ trong tâm hồn, đối với ông cuộc đời là thơ ca và thơ ca là cuộc đời, ông thi ca hóa tất cả mọi thứ, những gì mà ông chạm đến… Như một nhà thơ, ông thuộc hàng những vì sao sáng nhất trên bầu trời thi ca Nga… Như một nhà văn, ông có quyền ngồi chung chiếu với những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Nga”.
Những tác phẩm xuất sắc nhất của Davydov còn giá trị đến ngày nay là mảng thơ trữ tình. Mặc dù là một vị tướng và các bạn bè của ông, trong số họ có cả Aleksandr Puskin, khuyên ông làm thơ lính nhưng thơ ông hầu như không nói gì về chiến tranh mà chỉ viết về rượu, về tình yêu, về những cuộc truy hoan… mà một số bài thơ trích giới đây cho thấy điều đó.
Thư mục:
• Русский биографический словарь, изд. Русского исторического общества, - СПб., 1905 (ст. А. Петрова).
• Садовский Б., «Русская Камена», - М., 1910
• Жерве В. В., Партизан-поэт Давыдов, СПб., 1913.
• Розанов И. Н., Русская лирика. От поэзии безличной к исповеди сердца, - М., 1914.
• Мезьер А. В., Русская словесность с XI по XIX ст. включительно, ч. II, - СПб., 1902.
• Венгеров С. А. Источники словаря русских писателей, т. II, - СПб., 1910.
• Словарь русских генералов, участников боевых действий против армии Наполеона Бонапарта в 1812-1815 гг. // Российский архив : Сб. — М.: студия «ТРИТЭ» Н.Михалкова, 1996. — Т. VII. — С. 374-375.
• Глинка В.М., Помарнацкий А.В. Давыдов, Денис Васильевич // Военная галерея Зимнего дворца. — 3-е изд. — Л.: Искусство, 1981. — С. 100-102.
• Геннадий Серебряков Денис Давыдов (ЖЗЛ)
Một số bài thơ
Tiểu sử:
Denis Davydov sinh ra trong một gia đình quí tộc lâu đời ở Moskva. Từ nhỏ đã được giáo dục rất đến nơi đến chốn. Từ năm 1801 phục vụ trong trung đoàn kỵ binh Nga Hoàng, tham gia vào các cuộc chiến tranh với Pháp (1806 – 1807), với Thụy Điển (1808 – 1809), với Thổ Nhĩ Kỳ (1809 – 1812). Trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1812 ông là người đề xuất phương án tổ chức chiến tranh du kích trong lòng địch và đã rất thành công với cuộc chiến tranh này. Năm 1814 ông được phong hàm tướng, năm 1823 ra quân và đến năm 1826 trở lại phục vụ quân đội ở vùng Kapkage. Năm 1832 ông về hưu sống ở trang trại tại tỉnh Simbirsk và mất ngày 04 tháng 5 năm 1939 tại đây.
Denis Davydov chưa bao giờ tự nhận mình là một nhà thơ hay nhà văn, ông viết: “Tôi không phải là nhà thơ mà là người du kích, người lính Cô-dắc, tôi là nhà thơ không theo vần điệu mà theo tình cảm tự nhiên”. Mặc dù vậy, ông đã để lại cho đời sau một sự nghiệp văn học đáng kể cả thơ trữ tình lẫn văn xuôi. Nhà phê bình Vissarion Belinsky viết về Denis Davydov: “Ông là một nhà thơ từ trong tâm hồn, đối với ông cuộc đời là thơ ca và thơ ca là cuộc đời, ông thi ca hóa tất cả mọi thứ, những gì mà ông chạm đến… Như một nhà thơ, ông thuộc hàng những vì sao sáng nhất trên bầu trời thi ca Nga… Như một nhà văn, ông có quyền ngồi chung chiếu với những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Nga”.
Những tác phẩm xuất sắc nhất của Davydov còn giá trị đến ngày nay là mảng thơ trữ tình. Mặc dù là một vị tướng và các bạn bè của ông, trong số họ có cả Aleksandr Puskin, khuyên ông làm thơ lính nhưng thơ ông hầu như không nói gì về chiến tranh mà chỉ viết về rượu, về tình yêu, về những cuộc truy hoan… mà một số bài thơ trích giới đây cho thấy điều đó.
Thư mục:
• Русский биографический словарь, изд. Русского исторического общества, - СПб., 1905 (ст. А. Петрова).
• Садовский Б., «Русская Камена», - М., 1910
• Жерве В. В., Партизан-поэт Давыдов, СПб., 1913.
• Розанов И. Н., Русская лирика. От поэзии безличной к исповеди сердца, - М., 1914.
• Мезьер А. В., Русская словесность с XI по XIX ст. включительно, ч. II, - СПб., 1902.
• Венгеров С. А. Источники словаря русских писателей, т. II, - СПб., 1910.
• Словарь русских генералов, участников боевых действий против армии Наполеона Бонапарта в 1812-1815 гг. // Российский архив : Сб. — М.: студия «ТРИТЭ» Н.Михалкова, 1996. — Т. VII. — С. 374-375.
• Глинка В.М., Помарнацкий А.В. Давыдов, Денис Васильевич // Военная галерея Зимнего дворца. — 3-е изд. — Л.: Искусство, 1981. — С. 100-102.
• Геннадий Серебряков Денис Давыдов (ЖЗЛ)
Một số bài thơ
TÔI YÊU EM
Tôi yêu em như cần phải yêu em
Bất chấp số phận hay người đời thêu dệt
Bất chấp cả chuyện có thể em mỏi mệt
Vì cuộc đời tôi đến nghiệt ngã, vô thần.
Tôi yêu em – chẳng phải là vì em
Đẹp hơn tất cả, dáng hình thanh mảnh
Ánh nhìn phương Đông, bờ môi ướt mọng
Em là thơ ca – từ đầu tới bàn chân!
Tôi yêu em không sợ, chẳng kinh hoàng
Mạc Tư Khoa, Penza hay bầu trời, mặt đất
Tôi yêu em dù điếc tai, mù mắt…
Tôi yêu em vì người đó chính là em!
Tôi yêu chẳng cần lý lịch gia đình
Khô héo vì ghen hờn của bao kẻ dở
Tôi kính trọng và tôi nài xin họ
Đừng bận tâm và hãy xéo cho nhanh!
1834
Я вас люблю так, как любить вас должно
Я вас люблю так, как любить вас должно:
Наперекор судьбы и сплетней городских,
Наперекор, быть может, вас самих,
Томящих жизнь мою жестоко и безбожно.
Я вас люблю,- не оттого, что вы
Прекрасней всех, что стан ваш негой дышит,
Уста роскошствуют и взор Востоком пышет,
Что вы - поэзия от ног до головы!
Я вас люблю без страха, опасенья
Ни неба, ни земли, ни Пензы, ни Москвы,-
Я мог бы вас любить глухим, лишенным зренья...
Я вас люблю затем, что это - вы!
На право вас любить не прибегу к пашпорту
Иссохших завистью жеманниц отставных:
Давно с почтением я умоляю их
Не заниматься мной и убираться к черту!
TÔI NHỚ
Tôi nhớ - sâu vô cùng
Ánh mắt của tôi sâu thẳm
Như tia nắng xuyên đồi thông, rừng vắng
Và tôi ôm cả thảo nguyên rộng mênh mông
Nhưng ánh mắt sắc sảo, mắt tinh
Em đã làm cho sầu úa…
Tôi trông em là thiếu nữ của tình
Tôi khóc vì em trong những đêm không ngủ.
Я помню – глубоко
Я помню - глубоко,
Глубоко мой взор,
Как луч, проникал и рощи, и бор,
И степь обнимал широко, широко...
Но, зоркие очи,
Потухли и вы...
Я выглядел вас на деву любви,
Я выплакал вас в бессонные ночи!
KHÚC LÃNG MẠN
Em tàn nhẫn, sao hành hạ gì anh?
Sao quyến rũ bằng những lời âu yếm?
Sao tình yêu rực sáng trong mắt em
Còn trong tim lại vội vàng, nóng giận.
Anh chỉ cần một chút em yên lặng
Còn anh thì đau khổ muôn đời
Anh trút bỏ những gì mơ mộng
Của cõi lòng đã tan nát em ơi…
Đây là vương quốc đăm đuối mê hồn
Nơi bao lần số phận đuổi xua anh
Anh đã yêu mà người không yêu lại
Đã đau khổ mà người không thương hại
Nơi mà anh từng đau khổ vô cùng
Vì phụ bạc bởi dầu môi chót lưỡi
Và nơi mà không một ai hiểu nổi
Cõi lòng anh với nức nở lặng câm!
1835
Романс (Жестокий друг, за что мученье?..)
Жестокий друг, за что мученье?
Зачем приманка милых слов?
Зачем в глазах твоих любовь,
А в сердце гнев и нетерпенье?
Но будь покойна только ты,
А я, на горе обреченный,
Я оставляю все мечты
Моей души развороженной...
И этот край очарованья,
Где столько был судьбой гоним,
Где я любил, не быв любим,
Где я страдал без состраданья,
Где так жестоко испытал
Неверность клятв и обещаний,-
И где никто не понимал
Моей души глухих рыданий!
Tôi yêu em như cần phải yêu em
Bất chấp số phận hay người đời thêu dệt
Bất chấp cả chuyện có thể em mỏi mệt
Vì cuộc đời tôi đến nghiệt ngã, vô thần.
Tôi yêu em – chẳng phải là vì em
Đẹp hơn tất cả, dáng hình thanh mảnh
Ánh nhìn phương Đông, bờ môi ướt mọng
Em là thơ ca – từ đầu tới bàn chân!
Tôi yêu em không sợ, chẳng kinh hoàng
Mạc Tư Khoa, Penza hay bầu trời, mặt đất
Tôi yêu em dù điếc tai, mù mắt…
Tôi yêu em vì người đó chính là em!
Tôi yêu chẳng cần lý lịch gia đình
Khô héo vì ghen hờn của bao kẻ dở
Tôi kính trọng và tôi nài xin họ
Đừng bận tâm và hãy xéo cho nhanh!
1834
Я вас люблю так, как любить вас должно
Я вас люблю так, как любить вас должно:
Наперекор судьбы и сплетней городских,
Наперекор, быть может, вас самих,
Томящих жизнь мою жестоко и безбожно.
Я вас люблю,- не оттого, что вы
Прекрасней всех, что стан ваш негой дышит,
Уста роскошствуют и взор Востоком пышет,
Что вы - поэзия от ног до головы!
Я вас люблю без страха, опасенья
Ни неба, ни земли, ни Пензы, ни Москвы,-
Я мог бы вас любить глухим, лишенным зренья...
Я вас люблю затем, что это - вы!
На право вас любить не прибегу к пашпорту
Иссохших завистью жеманниц отставных:
Давно с почтением я умоляю их
Не заниматься мной и убираться к черту!
TÔI NHỚ
Tôi nhớ - sâu vô cùng
Ánh mắt của tôi sâu thẳm
Như tia nắng xuyên đồi thông, rừng vắng
Và tôi ôm cả thảo nguyên rộng mênh mông
Nhưng ánh mắt sắc sảo, mắt tinh
Em đã làm cho sầu úa…
Tôi trông em là thiếu nữ của tình
Tôi khóc vì em trong những đêm không ngủ.
Я помню – глубоко
Я помню - глубоко,
Глубоко мой взор,
Как луч, проникал и рощи, и бор,
И степь обнимал широко, широко...
Но, зоркие очи,
Потухли и вы...
Я выглядел вас на деву любви,
Я выплакал вас в бессонные ночи!
KHÚC LÃNG MẠN
Em tàn nhẫn, sao hành hạ gì anh?
Sao quyến rũ bằng những lời âu yếm?
Sao tình yêu rực sáng trong mắt em
Còn trong tim lại vội vàng, nóng giận.
Anh chỉ cần một chút em yên lặng
Còn anh thì đau khổ muôn đời
Anh trút bỏ những gì mơ mộng
Của cõi lòng đã tan nát em ơi…
Đây là vương quốc đăm đuối mê hồn
Nơi bao lần số phận đuổi xua anh
Anh đã yêu mà người không yêu lại
Đã đau khổ mà người không thương hại
Nơi mà anh từng đau khổ vô cùng
Vì phụ bạc bởi dầu môi chót lưỡi
Và nơi mà không một ai hiểu nổi
Cõi lòng anh với nức nở lặng câm!
1835
Романс (Жестокий друг, за что мученье?..)
Жестокий друг, за что мученье?
Зачем приманка милых слов?
Зачем в глазах твоих любовь,
А в сердце гнев и нетерпенье?
Но будь покойна только ты,
А я, на горе обреченный,
Я оставляю все мечты
Моей души развороженной...
И этот край очарованья,
Где столько был судьбой гоним,
Где я любил, не быв любим,
Где я страдал без состраданья,
Где так жестоко испытал
Неверность клятв и обещаний,-
И где никто не понимал
Моей души глухих рыданий!
EM TÔI
Em tôi nhẹ nhàng và em vui vẻ
Em hân hoan như buổi sáng tháng năm
Em đùa giỡn và đã không còn nhớ
Lời thề nào đã hứa hẹn cùng anh!...
Em có lý. Làm sao khi hân hoan
Trong cơn ngất ngây thì quên không dễ
Lời hẹn ước đó chỉ là có thể
Em đánh mất vì do quá vội vàng.
Còn anh chỉ trách số phận của mình
Ôm gối khóc sụt sùi như con trẻ
Vật vã trên giường, vì tình đau khổ
Anh nghĩ về em… và chỉ về em!
1834
Тебе легко — ты весела
Тебе легко — ты весела,
Ты радостна, как утро мая, —
Ты резвишься, не вспоминая,
Какую клятву мне дала!..
Ты права. Как от упоенья,
В чаду кадильниц, не забыть
Обет, который, может быть,
Ты бросила от нетерпенья.
А я?.. Я жалуюсь безжалостной судьбе,
Я плачу, как дитя, приникнув к изголовью,
Мечусь по ложу сна, терзаемый любовью,
И мыслю о тебе... и об одной тебе!
NN
Em bước vô - như Psyche, uể oải và rụt rè,
Như người đẹp Ba Tư, trẻ trung và xinh đẹp ...
Trên bờ môi em có những tiếng thầm thì
Phù thủy hiện nguyên hình, quỉ sứ và chết tiệt!
1833
NN
Вошла - как Психея, томна и стыдлива,
Как юная пери, стройна и красива...
И шепот восторга бежит по устам,
И крестятся ведьмы, и тошно чертям!
GIỐNG NHƯ DIOGENS
Có vẻ giống như Diogenes cùng với ngọn đèn
Tôi đi khắp thế gian tìm người đàn ông đích thực
Và tôi tin chắc chắn trong ý định của mình
Tôi đánh mất ở thủ đô quãng đời đẹp nhất.
Biết bao nghị sĩ, thẩm phán, quan tòa tôi đã gặp
Bao nhiêu nhà quí tộc, bộ trưởng, công tố viên
Tôi gặp đủ hạng người tốt xấu và sang hèn –
Mà ngọn đèn trên tay của tôi không hề tắt
Nhưng khi gặp bạn, tôi run rẩy và ngạc nhiên
Ngọn đền rơi khỏi tay… nhưng vẫn không hề tắt.
1810
______________
*Theo truyền thuyết, nhà triết học Hy Lạp cổ đại Diogenes (404-323 tr. CN), khi được hỏi tại sao ông đi bộ dưới ánh sáng ban ngày với một ngọn đèn, ông đã trả lời: “Tôi đi tìm một người đàn ông đích thực (nghĩa là một người thực sự có giá trị về mặt đạo đức). Nếu gặp được người như vậy thì ngọn đèn của Diogenes phải tắt.
Как будто Диоген с зажженным фонарем
Как будто Диоген с зажженным фонарем,
Я по свету бродил, искавши человека,
И сильно утвердясь в намереньи моем,
В столицах потерял я лучшую часть века.
Судей, подьячих я, сенаторов нашел,
Вельмож, министров, прокуроров,
Нашел людей я разных сборов -
Фонарь мой всё горел.
Но, встретившись с тобой, я вздрогнул, удивился
Фонарь упал из рук, но ах!.. не погасился.
Em tôi nhẹ nhàng và em vui vẻ
Em hân hoan như buổi sáng tháng năm
Em đùa giỡn và đã không còn nhớ
Lời thề nào đã hứa hẹn cùng anh!...
Em có lý. Làm sao khi hân hoan
Trong cơn ngất ngây thì quên không dễ
Lời hẹn ước đó chỉ là có thể
Em đánh mất vì do quá vội vàng.
Còn anh chỉ trách số phận của mình
Ôm gối khóc sụt sùi như con trẻ
Vật vã trên giường, vì tình đau khổ
Anh nghĩ về em… và chỉ về em!
1834
Тебе легко — ты весела
Тебе легко — ты весела,
Ты радостна, как утро мая, —
Ты резвишься, не вспоминая,
Какую клятву мне дала!..
Ты права. Как от упоенья,
В чаду кадильниц, не забыть
Обет, который, может быть,
Ты бросила от нетерпенья.
А я?.. Я жалуюсь безжалостной судьбе,
Я плачу, как дитя, приникнув к изголовью,
Мечусь по ложу сна, терзаемый любовью,
И мыслю о тебе... и об одной тебе!
NN
Em bước vô - như Psyche, uể oải và rụt rè,
Như người đẹp Ba Tư, trẻ trung và xinh đẹp ...
Trên bờ môi em có những tiếng thầm thì
Phù thủy hiện nguyên hình, quỉ sứ và chết tiệt!
1833
NN
Вошла - как Психея, томна и стыдлива,
Как юная пери, стройна и красива...
И шепот восторга бежит по устам,
И крестятся ведьмы, и тошно чертям!
GIỐNG NHƯ DIOGENS
Có vẻ giống như Diogenes cùng với ngọn đèn
Tôi đi khắp thế gian tìm người đàn ông đích thực
Và tôi tin chắc chắn trong ý định của mình
Tôi đánh mất ở thủ đô quãng đời đẹp nhất.
Biết bao nghị sĩ, thẩm phán, quan tòa tôi đã gặp
Bao nhiêu nhà quí tộc, bộ trưởng, công tố viên
Tôi gặp đủ hạng người tốt xấu và sang hèn –
Mà ngọn đèn trên tay của tôi không hề tắt
Nhưng khi gặp bạn, tôi run rẩy và ngạc nhiên
Ngọn đền rơi khỏi tay… nhưng vẫn không hề tắt.
1810
______________
*Theo truyền thuyết, nhà triết học Hy Lạp cổ đại Diogenes (404-323 tr. CN), khi được hỏi tại sao ông đi bộ dưới ánh sáng ban ngày với một ngọn đèn, ông đã trả lời: “Tôi đi tìm một người đàn ông đích thực (nghĩa là một người thực sự có giá trị về mặt đạo đức). Nếu gặp được người như vậy thì ngọn đèn của Diogenes phải tắt.
Как будто Диоген с зажженным фонарем
Как будто Диоген с зажженным фонарем,
Я по свету бродил, искавши человека,
И сильно утвердясь в намереньи моем,
В столицах потерял я лучшую часть века.
Судей, подьячих я, сенаторов нашел,
Вельмож, министров, прокуроров,
Нашел людей я разных сборов -
Фонарь мой всё горел.
Но, встретившись с тобой, я вздрогнул, удивился
Фонарь упал из рук, но ах!.. не погасился.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét