Mikhail Arkadyevich Svetlov (tiếng Nga: Михаи́л Арка́дьевич
Светло́в, họ thật là Sheinman – Ше́йнкман) (17 tháng 6 năm 1903 – 28 tháng 9 năm 1964) – là nhà viết kịch, nhà thơ Nga Xô Viết.
Tiểu sử:
Mikhail Svetlov sinh ở Ekaterinoslav (nay là Dnepropetrovsk, Ukraina). Gia đình làm nghề thủ công và rất nghèo. Bắt đầu in thơ từ năm 1917. Năm 1919 được cử làm trưởng phòng báo chí của tỉnh đoàn thanh niên tỉnh Ekaterinoslav. Năm 1920 tình nguyện gia nhập Hồng quân và chiến đấu trong thời kỳ Nội chiến. Một thời gian ông về sống ở Kharkov và từ 1922 chuyển lên sống ở Moskva. Năm 1926 ông viết bài thơ Гренада (Grenada) được 20 nhạc sĩ ở nhiều nước khác nhau phổ nhạc.
Năm 1928 ông bị khai trừ khỏi đoàn Côm-sô-môn vì ủng hộ tư tưởng xét lại của Trốt-xky. Thời kỳ thế chiến II ông làm phóng viên chiến trường của báo Красная звезда (Ngôi sao đỏ). Bài thơ nổi tiếng nhất của ông thời chiến tranh là bài Итальянец (Người Italia). Sau chiến tranh một thời gian sáng tác của ông bị coi là có vấn đề. Trong Đại hội II của Hội Nhà văn ông được các nhà thơ Semen Isaakovich Kirsanov, Olga Berggolts ủng hộ. Tập thơ Стихи последних лет, 1967 được tặng Giải thưởng Lê-nin.
Mikhail Svetlov mất ngày 28 tháng 9 năm 1964 tại Moskva.
Tác phẩm:
* Рельсы (1923)
* Стихи (1924)
* Корни (1925)
* Гренада (1927)
* Ночные встречи (1927)
* Горизонт (1959)
* Охотничий домик (1964)
* Стихи последних лет (1967)
Thư mục:
* Шкловский В. О сказке. — Детская литература, 1940, № 6
* Макаров А. Перед новым приливом. — В кн.: Макаров А. Разговор по поводу. М., 1959
* Любарева Е. Михаил Светлов. М., 1960
* Светлов М. Стихотворения и поэмы. М. — Л., 1966
.................................
................................
Tiểu sử:
Mikhail Svetlov sinh ở Ekaterinoslav (nay là Dnepropetrovsk, Ukraina). Gia đình làm nghề thủ công và rất nghèo. Bắt đầu in thơ từ năm 1917. Năm 1919 được cử làm trưởng phòng báo chí của tỉnh đoàn thanh niên tỉnh Ekaterinoslav. Năm 1920 tình nguyện gia nhập Hồng quân và chiến đấu trong thời kỳ Nội chiến. Một thời gian ông về sống ở Kharkov và từ 1922 chuyển lên sống ở Moskva. Năm 1926 ông viết bài thơ Гренада (Grenada) được 20 nhạc sĩ ở nhiều nước khác nhau phổ nhạc.
Năm 1928 ông bị khai trừ khỏi đoàn Côm-sô-môn vì ủng hộ tư tưởng xét lại của Trốt-xky. Thời kỳ thế chiến II ông làm phóng viên chiến trường của báo Красная звезда (Ngôi sao đỏ). Bài thơ nổi tiếng nhất của ông thời chiến tranh là bài Итальянец (Người Italia). Sau chiến tranh một thời gian sáng tác của ông bị coi là có vấn đề. Trong Đại hội II của Hội Nhà văn ông được các nhà thơ Semen Isaakovich Kirsanov, Olga Berggolts ủng hộ. Tập thơ Стихи последних лет, 1967 được tặng Giải thưởng Lê-nin.
Mikhail Svetlov mất ngày 28 tháng 9 năm 1964 tại Moskva.
Tác phẩm:
* Рельсы (1923)
* Стихи (1924)
* Корни (1925)
* Гренада (1927)
* Ночные встречи (1927)
* Горизонт (1959)
* Охотничий домик (1964)
* Стихи последних лет (1967)
Thư mục:
* Шкловский В. О сказке. — Детская литература, 1940, № 6
* Макаров А. Перед новым приливом. — В кн.: Макаров А. Разговор по поводу. М., 1959
* Любарева Е. Михаил Светлов. М., 1960
* Светлов М. Стихотворения и поэмы. М. — Л., 1966
.................................
................................
Một số bài thơ
NGƯỜI ITALIA
Cây thập ác màu đen nằm trên ngực
Không vết khắc, không bóng, chẳng hoa văn
Gia đình anh, dòng họ anh nghèo hèn
Và anh là đứa con trai duy nhất…
Hỡi người Napoli còn rất trẻ trung
Sao chết trên cánh đồng Nga trắng tuyết?
Sao không thể làm một người hạnh phúc
Ở vùng vịnh xanh nổi tiếng của mình?
Ở ngoại ô Mozdok, ta giết anh
Miền núi lửa xa xăm từng mơ ước!
Ta đây ở vùng Volga bát ngát
Từng mơ một lần dạo với du thuyền!
Nhưng bởi vì ta không mang súng lục
Đến cướp bóc mùa hè Italia
Vì trên đất Thánh Raffaelo
Đạn của ta không bao giờ gầm rít.
Ta bắn ở đây! Nơi ta sinh ra
Ta tự hào với bạn bè thân thiết
Nơi bài Bylina về nhân dân ta
Không bao giờ vang lên qua bản dịch
Chẳng lẽ ở nơi sông Đông uốn khúc
Người nước ngoài đã học, đã hiểu ra?
Đất của ta – Nước Nga, Nga-la-tư
Chẳng lẽ anh từng gieo trồng, cày cuốc?
Không! Người ta chở anh đến bằng xe lửa
Để chiếm làm những thuộc địa xa xăm
Để cây thập ác trong rương gia đình
Lớn bằng thập ác ở trên mộ chí.
Ta không cho phép biến quê hương ta
Thành khoảng bao la của bờ bến lạ!
Ta nổ súng – không có điều chính nghĩa
Nào chính nghĩa hơn viên đạn của ta.
Ở nơi này anh chưa sống, chưa từng
Nhưng bỏ mạng trên cánh đồng tuyết trắng
Để bầu trời Italia xanh thắm
Lắp kính trong đôi con mắt vô sinh…
Итальянец
Черный крест на груди итальянца,
Ни резьбы, ни узора, ни глянца,-
Небогатым семейством хранимый
И единственным сыном носимый...
Молодой уроженец Неаполя!
Что оставил в России ты на поле?
Почему ты не мог быть счастливым
Над родным знаменитым заливом?
Я, убивший тебя под Моздоком,
Так мечтал о вулкане далеком!
Как я грезил на волжском приволье
Хоть разок прокатиться в гондоле!
Но ведь я не пришел с пистолетом
Отнимать итальянское лето,
Но ведь пули мои не свистели
Над священной землей Рафаэля!
Здесь я выстрелил! Здесь, где родился,
Где собой и друзьями гордился,
Где былины о наших народах
Никогда не звучат в переводах.
Разве среднего Дона излучина
Иностранным ученым изучена?
Нашу землю - Россию, Расею -
Разве ты распахал и засеял?
Нет! Тебя привезли в эшелоне
Для захвата далеких колоний,
Чтобы крест из ларца из фамильного
Вырастал до размеров могильного...
Я не дам свою родину вывезти
За простор чужеземных морей!
Я стреляю - и нет справедливости
Справедливее пули моей!
Никогда ты здесь не жил и не был!..
Но разбросано в снежных полях
Итальянское синее небо,
Застекленное в мертвых глазах...
BÀI CA
Để em không khổ sở vì bụi bặm
Để gió không trùm dấu vết của em
Anh đã bế em trên tay cẩn thận
Rồi đặt người yêu vào giữa mây xanh.
Rồi khi anh đuổi theo gió, lao nhanh
Khi anh đang vội vàng thôi thúc ngựa
Thì em trên cao hãy dồn mây xanh
Và hãy nhìn sang phía anh, em nhé!..
Anh không là chồng hay bạn của em
Anh chỉ có việc làm theo dấu vết
Hôm nay trao em cả bầu trời xanh
Còn ngày mai anh sẽ trao quả đất!
Песенка (Чтоб ты не страдала...)
Чтоб ты не страдала от пыли дорожной,
Чтоб ветер твой след не закрыл,—
Любимую, на руки взяв осторожно,
На облако я усадил.
Когда я промчуся, ветра обгоняя,
Когда я пришпорю коня,
Ты с облака, сверху нагнись, дорогая,
И посмотри на меня!..
Я другом ей не был, я мужем ей не был,
Я только ходил по следам,—
Сегодня я отдал ей целое небо,
А завтра всю землю отдам!
CÁI CHẾT
Cây hạnh nhân nở hoa hằng năm
Và hạnh nhân tàn lụi…
Hàng tỷ người trên hành tinh
Đã kịp trở về cát bụi…
Chúng ta tiếc thương gì người đã chết!
Với tôi – không chút mảy may!
Xin hãy thương cho tôi đây!
Vì tôi hãy còn phải chết!
Смерть
Каждый год и цветет
И отцветает миндаль...
Миллиарды людей
На планете успели истлеть...
Что о мертвых жалеть нам!
Мне мертвых нисколько не жаль!
Пожалейте меня!
Мне еще предстоит умереть!
NGƯỜI ITALIA
Cây thập ác màu đen nằm trên ngực
Không vết khắc, không bóng, chẳng hoa văn
Gia đình anh, dòng họ anh nghèo hèn
Và anh là đứa con trai duy nhất…
Hỡi người Napoli còn rất trẻ trung
Sao chết trên cánh đồng Nga trắng tuyết?
Sao không thể làm một người hạnh phúc
Ở vùng vịnh xanh nổi tiếng của mình?
Ở ngoại ô Mozdok, ta giết anh
Miền núi lửa xa xăm từng mơ ước!
Ta đây ở vùng Volga bát ngát
Từng mơ một lần dạo với du thuyền!
Nhưng bởi vì ta không mang súng lục
Đến cướp bóc mùa hè Italia
Vì trên đất Thánh Raffaelo
Đạn của ta không bao giờ gầm rít.
Ta bắn ở đây! Nơi ta sinh ra
Ta tự hào với bạn bè thân thiết
Nơi bài Bylina về nhân dân ta
Không bao giờ vang lên qua bản dịch
Chẳng lẽ ở nơi sông Đông uốn khúc
Người nước ngoài đã học, đã hiểu ra?
Đất của ta – Nước Nga, Nga-la-tư
Chẳng lẽ anh từng gieo trồng, cày cuốc?
Không! Người ta chở anh đến bằng xe lửa
Để chiếm làm những thuộc địa xa xăm
Để cây thập ác trong rương gia đình
Lớn bằng thập ác ở trên mộ chí.
Ta không cho phép biến quê hương ta
Thành khoảng bao la của bờ bến lạ!
Ta nổ súng – không có điều chính nghĩa
Nào chính nghĩa hơn viên đạn của ta.
Ở nơi này anh chưa sống, chưa từng
Nhưng bỏ mạng trên cánh đồng tuyết trắng
Để bầu trời Italia xanh thắm
Lắp kính trong đôi con mắt vô sinh…
Итальянец
Черный крест на груди итальянца,
Ни резьбы, ни узора, ни глянца,-
Небогатым семейством хранимый
И единственным сыном носимый...
Молодой уроженец Неаполя!
Что оставил в России ты на поле?
Почему ты не мог быть счастливым
Над родным знаменитым заливом?
Я, убивший тебя под Моздоком,
Так мечтал о вулкане далеком!
Как я грезил на волжском приволье
Хоть разок прокатиться в гондоле!
Но ведь я не пришел с пистолетом
Отнимать итальянское лето,
Но ведь пули мои не свистели
Над священной землей Рафаэля!
Здесь я выстрелил! Здесь, где родился,
Где собой и друзьями гордился,
Где былины о наших народах
Никогда не звучат в переводах.
Разве среднего Дона излучина
Иностранным ученым изучена?
Нашу землю - Россию, Расею -
Разве ты распахал и засеял?
Нет! Тебя привезли в эшелоне
Для захвата далеких колоний,
Чтобы крест из ларца из фамильного
Вырастал до размеров могильного...
Я не дам свою родину вывезти
За простор чужеземных морей!
Я стреляю - и нет справедливости
Справедливее пули моей!
Никогда ты здесь не жил и не был!..
Но разбросано в снежных полях
Итальянское синее небо,
Застекленное в мертвых глазах...
BÀI CA
Để em không khổ sở vì bụi bặm
Để gió không trùm dấu vết của em
Anh đã bế em trên tay cẩn thận
Rồi đặt người yêu vào giữa mây xanh.
Rồi khi anh đuổi theo gió, lao nhanh
Khi anh đang vội vàng thôi thúc ngựa
Thì em trên cao hãy dồn mây xanh
Và hãy nhìn sang phía anh, em nhé!..
Anh không là chồng hay bạn của em
Anh chỉ có việc làm theo dấu vết
Hôm nay trao em cả bầu trời xanh
Còn ngày mai anh sẽ trao quả đất!
Песенка (Чтоб ты не страдала...)
Чтоб ты не страдала от пыли дорожной,
Чтоб ветер твой след не закрыл,—
Любимую, на руки взяв осторожно,
На облако я усадил.
Когда я промчуся, ветра обгоняя,
Когда я пришпорю коня,
Ты с облака, сверху нагнись, дорогая,
И посмотри на меня!..
Я другом ей не был, я мужем ей не был,
Я только ходил по следам,—
Сегодня я отдал ей целое небо,
А завтра всю землю отдам!
CÁI CHẾT
Cây hạnh nhân nở hoa hằng năm
Và hạnh nhân tàn lụi…
Hàng tỷ người trên hành tinh
Đã kịp trở về cát bụi…
Chúng ta tiếc thương gì người đã chết!
Với tôi – không chút mảy may!
Xin hãy thương cho tôi đây!
Vì tôi hãy còn phải chết!
Смерть
Каждый год и цветет
И отцветает миндаль...
Миллиарды людей
На планете успели истлеть...
Что о мертвых жалеть нам!
Мне мертвых нисколько не жаль!
Пожалейте меня!
Мне еще предстоит умереть!
NGỤ NGÔN
Huyền thoại xưa kể rằng như vậy
Rằng đã có từ hàng tỷ năm:
Sấm là chàng trai của một ngôi làng
Còn chớp là cô gái.
Ai biết được khi nào và tại sao
Chớp lóe sáng còn sấm đì đùng nổ?
Nhờ khoa học đã cho ta biết rõ
Về cái điều mà ta vẫn phân vân.
Sấm và chớp đã hẹn ngày gặp nhau
(Ngày gặp này – vẫn là điều bí ẩn).
Trước mặt họ là thế giới tình yêu
Chỉ có điều cứ mỗi ngày một lớn.
Khoảng trời xanh mênh mông tỏa sáng
Những chú voi đang gặm cỏ bên thềm
Dân chài lưới chuẩn bị cho bữa sáng
Đang làm lòng những con ngư long.
Và dòng nước cũng vô cùng to lớn
Tất cả đều to, nhưng có một điều:
Những con họa mi bên sông im tiếng
(Chưa bao giờ có chuyện thế kia).
Trên đầu họ cả trăm năm chuyển động
Lúc bấy giờ quá sớm để thành hôn…
Rồi theo dòng thời gian vụt đến
Và giờ khắc mong muốn được thành hôn.
Người quen biết và không quen uống rượu
Những người khách lử lả với hơi men
Và ngay cả những ai còn tỉnh táo
Vẫn hô to những tiếng: Hôn! Hôn!
Chàng Sấm ngồi với vẻ mặt trầm ngâm
Nghĩ rằng có lẽ nên cần nói nhỏ?
Còn nàng chớp với vẻ ngượng ngùng
Có thể, vẻ khiêm nhường chưa đủ?
- Nào uống mừng tân hôn! Xin chúc mừng!
Cơn giông đầu tiên ra đời như vậy.
Tia chớp lóe sáng, sấm nổ đì đùng
Hàng tỷ năm họ hai người thế đấy…
Hãy để tình yêu ở trong vũ trụ
Sẽ nhắc về chung thủy ở trần gian
Hỡi người vợ thân yêu và người mẹ
Lóe sáng lên, anh sẽ nổ đì đùng!
Басня
Было так - легенды говорят -
Миллиарды лет тому назад:
Гром был мальчиком такого-то села,
Молния девчонкою была.
Кто мог знать - когда и почему
Ей сверкать и грохотать ему?
Честь науке - ей дано уменье
Выводить нас из недоуменья.
Гром и Молния назначили свиданье
(Дата встречи - тайна мирозданья).
Мир любви пред ним и перед ней,
Только все значительно крупней.
Грандиозная сияла высь,
У крылечка мамонты паслись,
Рыбаков артель себе на завтрак
Дружно потрошит ихтиозавра.
Грандиозная течет вода,
Грандиозно все, да вот беда:
Соловьи не пели за рекой
(Не было же мелочи такой).
Над влюбленными идут века.
Рановато их женить пока...
Сквозь круговорот времен домчась,
Наступил желанный свадьбы час.
Пили кто знаком и незнаком,
Гости были явно под хмельком.
Даже тихая обычно зорька
Всех шумней кричит фальцетом:- Горько!
Гром сидит задумчиво: как быть?
Может, надо тише говорить?
Молния стесняется - она,
Может, недостаточно скромна?
- Пьем за новобрачных! За и за!-
Так возникла первая гроза.
Молния блестит, грохочет гром.
Миллиарды лет они вдвоем...
Пусть любовь в космическом пространстве
О земном напомнит постоянстве!
Дорогая женщина и мать,
Ты сверкай, я буду грохотать!
Huyền thoại xưa kể rằng như vậy
Rằng đã có từ hàng tỷ năm:
Sấm là chàng trai của một ngôi làng
Còn chớp là cô gái.
Ai biết được khi nào và tại sao
Chớp lóe sáng còn sấm đì đùng nổ?
Nhờ khoa học đã cho ta biết rõ
Về cái điều mà ta vẫn phân vân.
Sấm và chớp đã hẹn ngày gặp nhau
(Ngày gặp này – vẫn là điều bí ẩn).
Trước mặt họ là thế giới tình yêu
Chỉ có điều cứ mỗi ngày một lớn.
Khoảng trời xanh mênh mông tỏa sáng
Những chú voi đang gặm cỏ bên thềm
Dân chài lưới chuẩn bị cho bữa sáng
Đang làm lòng những con ngư long.
Và dòng nước cũng vô cùng to lớn
Tất cả đều to, nhưng có một điều:
Những con họa mi bên sông im tiếng
(Chưa bao giờ có chuyện thế kia).
Trên đầu họ cả trăm năm chuyển động
Lúc bấy giờ quá sớm để thành hôn…
Rồi theo dòng thời gian vụt đến
Và giờ khắc mong muốn được thành hôn.
Người quen biết và không quen uống rượu
Những người khách lử lả với hơi men
Và ngay cả những ai còn tỉnh táo
Vẫn hô to những tiếng: Hôn! Hôn!
Chàng Sấm ngồi với vẻ mặt trầm ngâm
Nghĩ rằng có lẽ nên cần nói nhỏ?
Còn nàng chớp với vẻ ngượng ngùng
Có thể, vẻ khiêm nhường chưa đủ?
- Nào uống mừng tân hôn! Xin chúc mừng!
Cơn giông đầu tiên ra đời như vậy.
Tia chớp lóe sáng, sấm nổ đì đùng
Hàng tỷ năm họ hai người thế đấy…
Hãy để tình yêu ở trong vũ trụ
Sẽ nhắc về chung thủy ở trần gian
Hỡi người vợ thân yêu và người mẹ
Lóe sáng lên, anh sẽ nổ đì đùng!
Басня
Было так - легенды говорят -
Миллиарды лет тому назад:
Гром был мальчиком такого-то села,
Молния девчонкою была.
Кто мог знать - когда и почему
Ей сверкать и грохотать ему?
Честь науке - ей дано уменье
Выводить нас из недоуменья.
Гром и Молния назначили свиданье
(Дата встречи - тайна мирозданья).
Мир любви пред ним и перед ней,
Только все значительно крупней.
Грандиозная сияла высь,
У крылечка мамонты паслись,
Рыбаков артель себе на завтрак
Дружно потрошит ихтиозавра.
Грандиозная течет вода,
Грандиозно все, да вот беда:
Соловьи не пели за рекой
(Не было же мелочи такой).
Над влюбленными идут века.
Рановато их женить пока...
Сквозь круговорот времен домчась,
Наступил желанный свадьбы час.
Пили кто знаком и незнаком,
Гости были явно под хмельком.
Даже тихая обычно зорька
Всех шумней кричит фальцетом:- Горько!
Гром сидит задумчиво: как быть?
Может, надо тише говорить?
Молния стесняется - она,
Может, недостаточно скромна?
- Пьем за новобрачных! За и за!-
Так возникла первая гроза.
Молния блестит, грохочет гром.
Миллиарды лет они вдвоем...
Пусть любовь в космическом пространстве
О земном напомнит постоянстве!
Дорогая женщина и мать,
Ты сверкай, я буду грохотать!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét