Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2017

Thơ Vsevolod Rozhdestvensky


Vsevolod Alexandrovich Rozhdestvensky (tiếng Nga: Всеволод Александрович Рождественский) (10 tháng 4 năm 1895 – 31 tháng 8 năm1977) – là nhà thơ Nga những năm 20 thế kỉ XX tham gia trường phái thơ Đỉnh cao.

Tiểu sử:
Vsevolod Rozhdestvensky sinh Hoàng thôn, học trường gymnazy do nhà thơ nổi tiếng Innokenty Annensky làm hiệu trưởng. Học xong gymnazy, vào học khoa lịch sử và ngôn ngữ Đại học SaintPetersburg. Thế chiến I xảy ra, chàng sinh viên năm thứ ba Vsevolod Rozhdestvensky bị điều động vào quân đội. Những bài thơ đầu tiên in tạp chí Học trò (Ученик) năm 1910, tập thơ đầu tiên Những năm tháng học trò (Гимназические годы) in năm 1914.

Những năm sau cách mạng tháng Mười Aleksandr Blok mời ông tham gia nhà xuất bảnVăn học thế giới”, chuyên dịch thơ cổ điển thế giới. Năm 1921 in hai tập thơ Лето và Золотое веретено. Những năm Thế chiến II ông làm phóng viên mặt trận nhiều chiến trường, in các tập thơ Голос родины (1943), Ладога (1945). Sau chiến tranh ông làm thơ về công cuộc xây dựng lại Leningrad và ca ngợi thiên nhiên phương bắc. Theo các nhà phê bình, Vsevolod Rozhdestvensky, khác với phong cách Đỉnh cao, là nhà thơ thành công khi viết về cuộc sống thôn dã hay về những tình yêu bình dị, cũng như trong việc chuyển dần từ sự cách tân trở về thơ truyền thống.

Ngoài thơ, ông còn là tác giả của một số vở opera, lời bài hát, thơ dịch và hồi kí. Ông là thành viên ban biên tập của các tạp chí Звезда và Нева. Ông được tặng thưởng huân chương Lao động và huân chương Sao đỏ. Vsevolod Rozhdestvensky mất ở Leningrad năm 1977.

Tác phẩm:
Các tập thơ:
*Гимназические годы» (1914).
*Лето (1921)
*Золотое веретено (1921)
*Большая Медведица (1926)
*Гранитный сад (1929)
*Земное сердце (1933)
*Окно в сад (1939)
*Голос Родины (1943)
*Ладога (1945)
*Страницы жизни (hồi kí, 1962 – 1974)

Một số bài thơ


TÌNH YÊU

Chớ đem ra làm trò với ngôn từ
Sáu chữ cái này, dù người đời quen vậy.
Chúng là lửa. “Tình” gieo vần với “máu”
Là ngôn ngữ tinh, vượt trội của ta.

“Tình” và “máu”. Một khi tim còn đập
Đưa máu chảy trong cơ thể ấm nồng
Bạn như uống từ giếng mạch ngàn năm
Rồi biến ước mơ trở thành hiện thực.

Từ những ngày buồn trong đời thay đổi
Khi mà trong tim tất cả giá băng
Niềm vui của tình mang bạn vào trong
Thế giới diệu kì của bao thay đổi.

Người phụ nữ có biết bao ánh sáng
Là bạn đường trong những bước chông gai
Và con tim lập tức bảo: người này
Vâng, người này – tia sáng trong số phận!

Hãy để nàng là sáng tạo của ước mơ
Là tưởng tượng, là hình dung của bạn
Cùng hơi thở của vĩnh hằng ấm nóng
Đã đặt vào trong tồn tại từ xưa.

Như lời kêu gọi vọng tới ngàn năm
Như ánh sáng bừng sau miền bóng tối
Và ngọn lửa ta truyền cho cháu con
Để đi vào bất tử, như ta vậy.
1946


Любовь

Не отдавай в забаву суесловью
Шесть этих букв, хотя к ним мир привык.
Они — огонь. «Любовь» рифмует с «Кровью»
Приметливый и мудрый наш язык.

«Любовь» и «Кровь». Покуда сердце бьется
И гонит в теле крови теплоту,
Ты словно пьешь из вечного колодца,
Преобразив в действительность мечту.

От тусклых дней в их неустанной смене,
Когда порою сердцу все мертво,
В нежданный мир чудесных превращений
Тебя любви уводит торжество.

Вот женщина, в которой столько света,
Друг в непогоду, спутница в борьбе,—
И сразу сердце подсказало: эта,
Да, только эта — луч в твоей судьбе!

Пускай она мечты твоей созданье,
Одно воображение твое —
С ней вечности горячее дыханье
Уже легло в земное бытие.

Как зов, дошедший из глубин столетий,
Как вспышка света за порогом тьмы,
И наш огонь возьмут в наследство дети,
Чтобы войти в бессмертье, как и мы.



TÌNH YÊU, TÌNH YÊU

Tình yêu, tình yêu – một lời bí ẩn
Liệu có ai hiểu được nó tận cùng?
Trong tất cả - cũ và mới thường xuyên
Mệt mỏi của hồn hay là sung sướng?

Là không thể bù cho mình phí tổn
Hay sự mở mang giàu có không cùng?
Ngày ấm nồng không hề có hoàng hôn
Hay là đêm làm cho tim trống vắng?

Mà có thể, em chỉ là nhắc nhở
Rằng vẫn chờ ta cái lẽ tất nhiên:
Ánh hào quang với bất tỉnh, thiên nhiên
Và sự tuần hoàn của đời muôn thuở.
1976


Любовь, любовь — загадочное слово

Любовь, любовь — загадочное слово,
Кто мог бы до конца тебя понять?
Всегда во всем старо ты или ново,
Томленье духа ты иль благодать?

Невозвратимая себя утрата
Или обогащенье без конца?
Горячий день, какому нет заката,
Иль ночь, опустошившая сердца?

А может быть, ты лишь напоминанье
О том, что всех нас неизбежно ждет:
С природою, с беспамятством слиянье
И вечный мировой круговорот?


TÔI MƠ THẤY

Tôi mơ thấy điều… không thể nói
Trong cái đêm ngột ngạt đã mơ
Đã nhìn thấy lại đường phố ấy
Có những con chim trong tổ đung đưa.

Tôi đã nghe những cây phong đen
Như đang đứng chuyện trò trong im lặng
Tôi hình dung nức nở của vàng anh
Và lửa trại trên đồng tắt ngấm.

Tôi nhìn thấy nhà mình, trên cửa sổ
Ngọn nến cháy bùng, ngọn nến lung linh
Những cây bạch dương đung đưa trước gió
Chạm mái tóc ánh bạc lên vai mình.

Từ cánh đồng xuyên qua làn mây trắng
Lướt như dao cắt cỏ ở trên đồng
Những vì tinh tú – những mắt sống động –
Ngó nhìn vào gương nước lặng trên sông.

Anh có thể kể về rất cặn kẽ
Em đã ra sao trong buổi chiều kia
Váy áo của em xạc xào to nhỏ
Và ánh trăng thanh lộng lẫy chói lòa.

Và để cho hơi thở ngập ngừng
Bằng hơi mát trong đêm tĩnh lặng
Ngày hôm ấy, em tròn mười chín
Anh cũng chừng ấy tuổi, bấy nhiêu em.
1933


Мне снилось... Сказать не умею

Мне снилось... Сказать не умею,
Что снилось мне в душной ночи.
Я видел все ту же аллею,
Где гнезда качают грачи.

Я слышал, как темные липы
Немолчный вели разговор,
Мне чудились иволги всхлипы
И тлеющий в поле костер.

И дом свой я видел, где в окнах,
Дрожа, оплывала свеча.
Березы серебряный локон,
Качаясь, касался плеча.

С полей сквозь туманы седые
К нам скошенным сеном несло,
Созвездия - очи живые -
В речное гляделись стекло.

Подробно бы мог рассказать я,
Какой ты в тот вечер была;
Твое шелестевшее платье
Луна ослепительно жгла.

И мы не могли надышаться
Прохладой в ночной тишине,
И было тебе девятнадцать,
Да столько же, верно, и мне.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét