Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Năm, 26 tháng 1, 2017

Thơ Yanka Kupala - Thơ Belarus


Yanka Kupala (tiếng Belarus: Я́нка Купа́ла, tên thật là Ivan Daminikavich Lutsevich, 7 tháng 7 năm 1882 – 28 tháng 6 năm 1942) – nhà thơ, nhà văn, dịch giả, nhà soạn kịch Belarus. Ông là nhà thơ Nhân dân, là tác gia cổ điển của văn học Belarus, Viện sĩ của Viện hàn lâm Belarus, Giải thưởng Stalin năm 1941 cho tập thơ Từ trái tim (Ад сэрца).

Tiểu sử:
Kupala sinh ngày 07 Tháng 07 năm 1882 tại làng Viazynka, huyện Maladzyechna, tỉnh Minsk. Bố mẹ là những người nông dân không có đất, phải trả tiền cho việc thuê đất đ sản xuất. Kupala nhận được một nền giáo dục truyền thống Belarus, Học xong Trung học chuyên nghiệp năm 1898. Sau cái chết của cha vào năm 1902, Kupala làm việc một loạt các công việc ngắn hạn, như làm gia sư,nhân viên bán hàng

Các năm 1908 – 1909 sống Vilnius, làm biên tập cho tờ báo Наша Ніва của Belarus. Các năm 1909 – 1913 học các khóa dự bị Saint Petersburg, năm 1915 học tiếp Đại học Nhân dân Moskva nhưng chưa tốt nghiệp thì năm 1916 đã phải vào lính. Sau Cách mạng tháng Mười ông trở về Minsk.

Những bài thơ đầu tay viết bằng tiếng Ba Lan và in trong các năm 1903 – 1904 tạp chí Ziarno (Ngũ cốc) với bút danhK-a”. Bài thơ Мужык (Người nông dân) bằng tiếng Belarus in năm 1905 tờ báo Северо-Западный край (Miền Tây Bắc) có thể coi là sự ra mắt thành công đưa Kupala bước tới đỉnh cao trong bước đường văn học.

Thời kỳ Xô Viết, kể từ đầu những năm 1920 đến thời kỳ Thế chiến II, Kupala lần lượt xuất bản nhiều tập thơ, trong số đó tập thơ Từ trái tim (Ад сэрца) được trao giải Stalin (tức Giải thưởng Nhà nước).

Yanka Kupala mất Moskva trong một cái chết rất đột ngột. Xung quanh cái chết bí ẩn này có nhiều giả thiết nhưng chưa có giả thiết chính thức. Ông được mai táng tại một nghĩa trang Moskva và đến năm 1962 được chuyển về Minsk nằm bên cạnh mẹ ông. Mẹ của ông chết một ngày sau khi ông chết nhưng thành phố Minsk khi đó còn trong sự chiếm đóng của quân phát xít.

Tên của Yanka Kupala được đặt cho nhiều đường phố, các đơn vị hành chính, trường học, công viên, thư viện, nhà ga, các tổ chức xã hội Belarus cũng như Nga và Ukraine.

Tác phẩm:

Thơ:
*Жалейка (
Cây sáo, 1908)
*Шляхам жыцьця (Đư
ờng đời, 1913)
*Спадчына (
Di sản, 1922)
*Ад сэрца (
Từ trái tim, 1940)
*Беларускім партызанам (
Du kích Belarus,1940)

Trường ca:
*Зімою (
Mùa đông, 1907)
*Нікому (
Không cho ai, 1907)
*Адплата каханьня (
Trừng phạt của tình yêu, 1907)
*За што? (
Vì điều gì?, 1908)
*Адвечная песьня (
Bài ca nguyên thủy, 1908)
*Курган (Đ
ồi mộ cổ, 1910)
*Сон на кургане (
Giấc ngủ trên đồi mộ cổ, 1910)
*Магіла льва (
Mồ sư tử, 1913)
*Яна і я (
Nàng và tôi, 1913)
*Над ракою Арэсай (
Trên sông Orestes, 1933)
*Тарасова доля (
Số phận Tarasov, 1939)

Kịch:
*Паўлінка (
Pavlinka, 1912)
*Прымакі (
Primaki, 1913)
*Тутэйшыя (
Người địa phương, 1922)

Một số bài thơ:

Đ
ỪNG ĐI TÌM

Bạn đừng đi tìm kiếm
Hạnh phúc đâu xa xôi
Đ
ừng tìm bên kia biển
Hay nơi cuối trời
Bạn đừng đi tìm kiếm!

Bạn tìm thấy rất gần
Cho mình niềm hạnh phúc
Nơi người mẹ ru con
Hát con nghe câu hát
Hãy biết tìm nơi gần!

Đ
ừng tìm bạn cho mình
Giữa những người xa lạ
Giữa những chốn người đông
Hay những người giàu có
Đ
ừng tìm bạn cho mình!

Bạn tìm thấy rất gần
bên mái nhà tranh
Nơi những ngày thơ bé
Lưỡi hái mùa cắt cỏ
Hãy biết tìm nơi gần!

Đ
ừng đi tìm cho mình
Tổ quốcMẹ quê hương
Trên đất hay trên biển
Khổ đau hay sung sướng
Đ
ừng đi tìm cho mình!

Bạn tìm thấy rất gần
Không cao, không thấp lắm
Hãy nhìn vào tâm hồn
Vào trái tim của bạn
Bạn sẽ thấy quê hương.


Не шукай ты шчасця, долі

Не шукай ты шчасця, долі
На чужым, далёкім полі,
Гэт, за шумным лесам-борам,
За шырокім сінім морам
Не шукай ты шчасця, долі! 

Ты ўсё знойдзеш гэта блізка,
Там, дзе маці над калыскай
Табе песні напявала,
Як малога калыхала,
Толькі ўмей шукаці блізка!

Не шукай сабе дружакаў
Між чужынцаў, між піяўкаў,
Ні у месцы, ні ў палацы,
Ні пры лёгкай панскай працы,—
Не шукай ты там дружакаў! 

Ты іх знойдзеш вельмі блізка,
Каля хаты, каля нізкай,
Дзе ганяў жывёлу змалку,
Дзе касой махаў на ранку,
Толькі ўмей шукаці блізка!

Не шукай сабе, мой братку,
З ветрам Бацькаўшчыну-матку
Ні на сушы, ні на моры,
Ні у шчасці, ні у горы,
Не шукай яе там, братку! 

Яе знойдзеш вельмі блізка,
Як знаходзіць лес вятрыска,
Толькі ў сэрца глянь сваё ты
І ў душу заглянь з ахвотай,
Знойдзеш Бацькаўшчыну блізка!
1913



MÀ EM, TRẺ MỒ CÔI

Mà em, trẻ mồ côi, em cứ sống
Như chiếc lá vàng đ gió cuốn trôi
Không có chỗ cho em đời này
Không có bài ca vui như em muốn. 

Em cứ gánh đời này gánh nặng
Giữa bóng đêm tăm tối nghĩa trang
Không mục đích và chẳng có con đường
Cứ nức nở, khóc lên cho nhẹ nhõm.

Và cứ đi trên đời như chiếc bóng
Lặng lờ trôi theo số kiếp mồ côi
Trong con tim thiếu nữ chẳng tình yêu
Dù thiếu nữ vẫn dịu dàng đằm thắm.

Vận của emlà mơ trong giấc mộng
Và em ơi, em hãy nhớ điều này
Một mai này em từ giã cuộc đời
Trên mồ em không một ai cúi xuống.


А ты, сіраціна, жыві

А ты, сіраціна, жыві,
Як ветрам лісток адарваны, –
Ні месца табе на зямлі,
Ні радасці з песень жаданай,

Нясі сваю ношку жыцця
Між наспаў-курганаў магільных,
Без веры ў свой цэль, без пуцця,
Расплаканы ў жальбах бяссільных.

Як цень з таго свету, ідзі,
Не знаючы ў долі сірочай
Ні сэрца з дзявочай грудзі,
Ні сонечнай ласкі дзявочай.

Жыві і сні сны аб вясне,
Ды думай адно, сіраціна.
Што нават ніхто не ўздыхне
Калісь над тваёй дамавінай.
1915


NẾU AI HỎI CHÚNG TÔI

Những kẻ từ phương Đông
Và từ phương Tây tới
Họ đưa ra câu hỏi:
-Nòi giống của các anh?
Và đất đai đâu vậy
Đâu để gọi quê hương?

Qua bờ giậu đứng nhìn
Sau bờ rào đứng ngó…
Trả lời sao với họ?
Chúng tôi trả lời rằng:
Chỉ chút ít thời gian
Đang chạy đi đâu đó”. 

Як спытаюцца нас

Прыйдуць людзі з Усходу,
Прыйдуць з Захаду людзі
I спытаюцца нас:
«Скуль, якога вы роду?
Дзе зямля ваша будзе,
Дзе айчызна у вас?»

Мы ля плоту, пад плотам
Паглядзім, пашукаем,
Які даць тут адказ,
I адкажам: «Э, што там...
Мусіць, бабскім звычаем
Збегла ўпрочкі на час».
1911



CÂY SỒI

Thả những cành những nhánh
Cây đứng trong cô đơn
Vùng đất bị bỏ quên
Cánh đồng xa xôi lắm.

Như vua đội vương miện
Cây chẳng cần quan tâm
Dù gió bão hét lên
Dù cơn lốc đổ xuống.

Chỉ đứng ở một nơi
Ngày hay đêm vẫn hát
Cây biết nhiều bản nhạc
Những câu chuyện tuyệt vời.

Mưa đào bới gốc cây
Phía bên trong là bộng
Cây lắc lư thật mạnh
Khủng khiếp đến ghê người. 

Дуб

Распусціўшы сучча
У глухім прыволлі,
Сам адзін расце ён
На далёкім полі.

Як цар, у кароне,
Аб нічым не дбае,
Ці то стогне бура,
Ці віхор гуляе.

На адным ён месцы
Днюе і начуе;
Многа казак знае,
Многа песень чуе.

Дождж падмыў карэнне;
Ў ім дупло – як хата...
Ён стаіць і дрэмле –
Грозны, расахаты.
2017



ĐỨA CON BẤT HIẾU

Một bà già vẫn ở 
Trong túp lều của mình
Số kiếp bà đen đủi
Như quả lê trên đồng. 

Bà có đứa con trai 
Đi về nơi xa lạ –
Tìm hạnh phúc đâu đó
Và biến mất tăm hơi.

Và những đứa con gái
Cũng từ bỏ nhà mình
Làm việc, đi lấy chồng
Và gặp nhiều ngang trái.  

Bà sống trong khổ ải
Không bước dậy khỏi giường
Bà gọi những đứa con
Chỉ ngôi nhà trống trải.

Và láng giềng quây lại
Họ nghĩ: phải làm gì?
Để giúp cho bà già
Phải tìm cách gì đấy.

Họ viết cho con trai:
– Hãy về, mẹ ốm nặng
Và mọi người cũng muốn
Nhìn thấy anh quay về.

Đứa con trai về đây
Với ngôi nhà khốn khổ
Là quí ông, hoàng tử
Là người tỉnh, người say.

Chàng cúi xuống trên người
Mẹ chàng đang khó thở.
Cúi gập như người mẹ
Xưa cúi xuống trên nôi.

Bà mẹ già tỉnh lại
Điều an ủi với bà
Dù con nói gì đấy
Bà cũng chẳng nghe ra.

Và mẹ già không hiểu
Chuyện gì với con trai.
Nó đang ở trong nhà –
Bà già đang cố nhớ. 

Và bà già nhớ rõ
Cố lấy hết sức mình
Như con ngựa bên sông:
– Ôi, một người xa lạ!

Bà mẹ già ngủ thiếp
Đứa con lại ra đi
Những hàng xóm thầm thì
– Điều gì đây tiếp tục? 

Адступнік

Дажывае стара маці
Сірацінаю у хаце,
Ў соннай волі, ў чорнай долі,
Як та груша сярод поля.

Мела сына, але сыну
Захацелася ў чужыну:
Ён пайшоў шукаць там шчасця
Або згінуць, запрапасці.

Мела дочак, але дочкі
Пабрылі таксама ўпрочкі:
Тая замуж, тая ў службу
На нядолю, на нядружбу.

Дажывае веку маці, –
Ужо не можа з ложка ўстаці,
Кліча дочак, кліча сына, –
Але пуста ўсё хаціна.

Сабраліся добры людзі,
Гаманілі: што то будзе?
Са старою мала ладу –
Трэба даць якую раду.

I да сына лісты пішуць:
– Прыязджай, бо ўжо чуць дышыць
Маці стара і маячыць:
Цябе хоча ўсё пабачыць.

Сын варочаўся з чужыны
Да матулі, да хаціны
Не то князем, не то панам,
Не то трэзвым, не то п′яным.

Падышоў да ложка бліжай:
Маці сьпіць, як знята з крыжа;
Пахіліўся над ёй нізка,
Як яна здаўн над калыскай.

I старую разбуджае,
Нейкім словам пацяшае, –
Штось гаворыць і гаворыць, –
Тая слухае, як зморы.

Прыглядаецца матуля,
Што зрабілася з сынуляй;
Ён ці не – стаіць у хаце,
Усё сіліцца згадаці.

I згадала, ой, згадала!
Енкнуць голасу сабрала,
Бы та каня над крыніцай:
– Чужаніца, чужаніца!

Легла маці ў дамавіну;
Сын зноў ехаў у чужыну,
А за ім шумелі людзі:
Што то далей з яго будзе?
1914


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét