Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Tư, 8 tháng 2, 2017

Thơ Nicolai Gumilyov


Nikolay Stepanovich Gumilyov (tiếng Nga: Николай Степанович Гумилёв) (15/4/1886 – 8/1921) là nhà thơ Nga thế kỉ bạc, người sáng lập trường phái văn học Đỉnh cao.

Tiểu sử
Nicolai Gumilyov sinh ở Kronstadt, là con trai của bác sĩ Stepan Yakovlevich Gumilev và Anna Ivanovna L'vova. Thuở nhỏ sống ở Hoàng thôn, học ở trường gymnazy do nhà thơ nổi tiếng I. Annensky làm hiệu trưởng. Học xong trường gymnazy, Nicolai Gumilyov học Đại học Saint Petersburg và Đại học Sorbonn. Năm 1902 in bài thơ đầu tiên ở một tờ báo. Năm 1905 tập thơ đầu tiên Con đường của những nhà chinh phục (
Путь конквистадоров). Từ năm 1907 đi du lịch sang các nước châu Âu nhiều lần. Năm 1908 in tập thơ Những bông hoa lãng mạn (Романтические цветы). 

Năm 1910 Nicolai Gumilyov và Anna Akhmatova làm đám cưới, hai năm sau sinh con trai Lev Gumilyov – sau này là một nhà khoa học nổi tiếng của Nga. Năm 1911 thành lập phái Đỉnh cao (
акмеизм) cùng với Anna Akhmatova và Osip Mandelstam. Năm 1912 in tập thơ Bầu trời xứ lạ (Чужое небо). Từ năm 1914 đến 1918 tham gia quân đội. Năm 1918 chia tay với Anna Akhmatova, năm 1919 cưới Anna Engelgardt.

Năm 1921 Nicolai Gumilyov in hai tập thơ lấy cảm hứng từ những chuyến đi châu Phi, cũng trong năm này ông bị bắt do nghi ngờ tham gia vào tổ chức vũ trang Tagantsev và bị xử bắn, nơi xử bắn và phần mộ không rõ.

Nicolai Gumilyov không chỉ là nhà thơ mà ông còn là một nhà thám hiểm châu Phi có tiếng. Ông tham gia các đoàn thám hiểm đông và bắc Phi, mang về cho bảo tàng dân tộc học ở Saint Petersburg nhiều bộ sưu tập có giá trị. Ngoài sáng tác thơ ông còn là một nhà văn với nhiều truyện hay và là một dịch giả xuất sắc.

Ảnh hưởng văn học của Gumilyov:
Nicolai Gumilyov kiên trì tổ chức nhiều nhóm văn học, không được người đương thời đánh giá cao, nhưng đã để lại nhiều kết quả tốt đẹp. Những học trò của ông như Georgy Abramovich, Georgy Ivanov, Vsevolod Rozhdestvensky, Irina Odoevtseva, Nicolai Tikhonov… và nhiều người khác sau này đã trở thành những nhà thơ nổi tiếng. Phái văn học Đỉnh cao đã thu hút những tài năng thi ca xuất sắc đương thời như Anna Akhmatova và Osip Mandelstam. Nicolai Gumilyov có sự ảnh hưởng sâu sắc đến thơ ca hải ngoại của Nga cũng như thơ ca Xô Viết.

T
ác phẩm
*Путь конквистадоров (1905)
* Романтические цветы (1908)
*Жемчуга (1910)
*Чужое небо (1912)
*Колчан (1916)
*К Синей звезде (1917)
*Колчан, Четвертая книга стихов, Книгоиздательствово «Петрополис», Берлин (1923).
*Тень пальмы (1922) –
tập truyện
*Эмали и камеи (1914) –
dịch Théophile Gautier.

Thư mục:
1. Павловский А.И. Николай Гумилев. — В кн.:
 Гумилев Н. Стихотворения и поэмы. Л., 1988
2. Николай Гумилев в воспоминаниях современников. М., 1989
3. Гумилев Н.С.
 Проза. М., 1990
4. Гумилев Н.С.
 Драматические произведения. Переводы. Статьи. Л., 1990
5. Гумилев Н.С.
 Собрание сочинений, тт. 1-3. М., 1991
6. Н.С.Гумилев
pro et contra: личность и творчество Н.Гумилева в оценке русских мыслителей и исследователей. СПб, 1995




CÓ NHIỀU NGƯỜI YÊU

Có nhiều người yêu nhiều vẻ khác nhau
Người khôn ngoan đi xây nhà xây cửa
Quanh những cánh đồng tốt tươi màu mỡ
Lũ trẻ con đùa nghịch chạy theo nhau.

Có những người yêu nhau rất nghiệt ngã
Chỉ những câu hỏi và câu trả lời
Máu sôi lên, trút giận lên đầu ai
Nghe như tiếng của bầy ong vò vẽ.

Lại có những kẻ yêu như là hát
Họ vui mừng và vui vẻ hát lên
Họ giấu mình chốn nương náu thần tiên
Có những kẻ lại yêu như nhảy nhót.

Còn em khi yêu thế nào, cô gái
Vì điều chi em mệt mỏi em buồn?
Có lẽ nào em lại chẳng cháy lên
Bằng ngọn lửa bí huyền em quen ấy?

Nếu em có thể hiện trước mắt anh
Bằng tia chớp loé sáng ngời của Chúa
Thì anh từ nay cháy lên trong lửa
Ngọn lửa từ địa ngục đến trời xanh!


NÀNG

Tôi biết người phụ nữ luôn im lặng
Mệt mỏi đắng cay vì lời nói, vì từ
Nàng sống trong vẻ chập chờn bí ẩn
Của những con ngươi luôn mở rất to.

Tâm hồn nàng khao khát được mở ra
Và chỉ dành cho âm nhạc của thơ
Trước cuộc đời dung tục và hoan hỉ
Tâm hồn kia ngạo mạn và tránh xa.

Tiếng bước chân rất nhẹ và thong dong
Tiếng bước chân êm đến lạ lùng
Dù tôi không thể gọi nàng là đẹp
Nhưng hạnh phúc tôi tất cả trong nàng.

Những khi tôi khao khát sự bất thường
Tôi ngạo mạn, can đảm đến với nàng
Đ
học nỗi đau khôn ngoan dịu ngọt
Trong vẻ rã rời mê sảng của em.

Trong giờ mỏi mệt giữ vẻ sáng trong
Giữ trong tay mình biết bao sấm sét
Những giấc mơ của nàng là chuỗi hạt
Như bóng trong cát lửa chốn thiên đàng.





TÔI VÀ EM

Tôi và em không xứng đôi vừa lứa
Bởi tôi từ xứ sở khác đến đây
Và tôi thích không phải ghi-ta kia
Mà giai điệu đàn zu-na hoang dã.

Và không phải những xa-lông bóng lộn
Những gian phòng, những áo váy màu đen
Mà tôi đọc thơ cho những con rồng
Những thác nước và những làn mây trắng.

Thích như người Rập trong vắng vẻ
Á
p sát mình vào nước uống nước trong
Chứ không như hoàng tử trong tranh
Nhìn sao trời và đợi điều gì đó.

Và chết không trong gối ấm chăn êm
Có thầy thuốc cùng với viên chưởng khế
Mà trong một khe mương nào hoang dã
Chìm đắm trong dày đặc của trường xuân.

Đ
rồi không đi vào chốn thiên đàng
Của đạo Tin lành đã từng chọn lựa
Mà nơi có kẻ cướp, người thu thuế
Và gái làng chơi gào thét: dậy đi anh!


GIỮA LÒNG TÔI NHỮNG BÔNG HOA KHÔNG NỞ

Giữa lòng tôi những bông hoa không nở
Tôi bị lừa bởi vẻ đẹp qua mau
Ngày một ngày hai rồi bỗng nát nhàu
Giữa lòng tôi những bông hoa không nở.

Và giữa lòng tôi chim chóc không
Chỉ xù lông rồi trầm giọng u buồn
Và sáng ramột nắm nhỏ bằng lông...
Ngay cả chim, giữa lòng tôi không .

Chỉ có sách được xếp thành tám dãy
Những tập sách dày buồn bã lặng im
Chúng canh chừng vẻ mỏi mệt ngàn năm
Như những chiếc răng xếp thành tám dãy.

Người buôn sách cũ bán chúng cho tôi
Người này xưa lưng gù và nghèo khó…
Ô
ng buôn bán vì nghĩa trang nguyền rủa
Người buôn sách cũ bán chúng cho tôi.


GIẤC MƠ

Anh nức nở trong giấc mơ khủng khiếp
Và thức giấc với một nỗi buồn thương:
Anh mơ thấy em đã yêu người khác
Và người này đã xúc phạm đến em.

Anh vùng dậy khỏi giường mình và chạy 
Như kẻ sát nhân khỏi đọan đầu đài
Qua ánh sáng đục mờ anh nhìn thấy
Những ngọn đèn như mắt thú đâu đây.

Và có lẽ không còn ai như vậy
Anh lang thang giống như kẻ không nhà
Trong đêm ấy trên những đường phố tối
Như theo dòng những dòng suối cạn khô.

Và bây giờ đứng trước cửa nhà em
Bởi vì anh không còn cách nào khác
Mặc dù biết rằng anh không dám bước
Không bao giờ anh dám bước vào trong.

Người xúc phạm em, anh vẫn biết rằng
Đ
ấy chỉ là một giấc mơ khủng khiếp
Nhưng dù sao thì anh giờ đang chết
Trước cửa sổ nhà kín mít như bưng.


SAU BAO NĂM THÁNG DÀI

Sau bao năm tháng dài
Anh lại quay về đây
Nhưng anh bị đày ải
Người dõi theo anh đây.

-
Em đã chờ đợi anh
Suốt bao nhiêu tháng năm
Với tình emkhoảng cách
Không hề có trong tình.

-
Anh bôn ba xứ người
Sống gần hết cuộc đời
Cuộc đời trôi nhanh quá
Không đ ý em ơi.

-
Cuộc đời em đã từng
Bao âu yếm, dịu dàng
Em đã từng chờ đợi
Trong mơ em thấy anh.

Cái chết trong nhà em
Cái chết trong nhà anh
Chẳng đáng gì cái chết
Nếu giờ ta có mình.


CÔ BÉ

Thời gian không xua đi được nỗi buồn
Không còn sức đ nhìn và đ thở
Lấy bàn tay khép vào đôi mắt mở
Và anh bắt đầu mơ ước về em.

Không về cô bé mỏi mệt, thanh thanh
Như tất cả nhìn ra em như thế
Mà cô bé khiêm nhường và lặng lẽ
Trên cuốn sách của Musset cúi mình.

Cái ngày em biết được lần đầu tiên
Ấn Đ lạ kì của bao kì lạ
Có những cây cọ thiêng, có hổ
Giờ đối với anh ngày ấy vẫn còn.

Đô
i khi em nhìn biển cả mênh mông
Còn bão tố đ dồn trên biển cả
Đ
ấy là trong hiện tại niềm đau khổ
Che mờ đôi mắt bằng một màn sương.

Tại vì sao trên bờ biển lặng im
Không chói ngời lên màu vàng cung điện?
Tại sao trên những luồng sóng sáng
Thiên thần lại không đi đến với em?

Anh biết rằng trong chiếc chăn trẻ con
Em không ngủ trong những chiều như vẫn.
Con tim thổn thức, đôi mắt ngời sáng
Em mơ về số phận lớn lao hơn.

Và khi vùi đầu kín mít trong chăn
Em muốn trở thành mặt trời sáng chói
Đ
cho loài người rồi đây sẽ gọi
Em là hạnh phúc, hi vọng của mình.

Thế gian này không xảo quyệt với em
Em bất thình lình xuyên qua bóng tối
Trở thành ngôi sao vô cùng chói lọi
Dù chẳng cho ngườimà chỉ riêng anh.

Nhưng bây giờ em đã khác, em quên
Những gì buổi ấu thơ từng suy nghĩ
Hi vọng đâu? Thế gian là ngôi mộ
Hạnh phúc đâu? Anh thở nhọc nhằn.

Và người đối thoại của em bí huyền
Anh trao lòng mình cho em tất cả
Vì cái tạp dề của em hồi nhỏ
Vì con búp bê đã vỡ của em.
1917


ANH MƠ THẤY HAI CHÚNG MÌNH ĐÃ CHẾT

Anh mơ thấy hai chúng mình đã chết
Ta nằm đây với ánh mắt yên lòng
Cả hai chiếc quan tài đều trắng toát
Người ta đặt kề bên.

Khi nào ta từng nói rằng: “Quá đ”?
Đã
lâu chưa và có y nghĩa gì?
Nhưng thật lạ lùng tim không đau khổ
Và con tim không khóc, thấy lạ ghê.

Và tình cảm bất lực đến lạ lùng
Những y nghĩ giá băng trong sáng quá
Bờ môi không còn khao khát ước mong
Dù bờ môi vẫn tuyệt vời muôn thuở.

Thế là hết: hai chúng mình đã chết
Ta nằm đây với ánh mắt yên lòng
Cả hai chiếc quan tài đều trắng toát
Người ta đặt kề bên.





THƠ VỀ EM

Thơ về em, về em, chỉ về em
Không một chút gì về anh hết cả!
Trong số phận con người tăm tối quá
Em là lời kêu gọi tới trời xanh.

Con tim yêu thương cao thượng của em
Như biểu tượng thời gian trong quá khứ
Sự tồn tại mọi giống nòi, tất cả
Làm phép thiêng, thần thánh hóa thời gian.

Nếu những vì sao sáng và kiêu hãnh
Mà quay lưng lại với trái đất này
Thì trái đất có hai vì sao sáng
Là đôi mắt can đảm của em đây.

Và đến một khi thiên thần màu vàng
Thổi kèn lên rằng thời gian đã cạn
Thì chúng tôi giơ khăn em màu trắng
Trước thiên thần đ che chở cho em.

Tiếng động lặng ngừng trong ống kèn rung
Thiên thần đ xuống từ trên cao đó…
Thơ về em, về em, chỉ về em
Không một chút gì về anh hết cả!


GIÁC QUAN THỨ SÁU

Rượu tình yêu trong ta thật tuyệt vời
Bánh mì cho ta tự vào lò nướng
Và người phụ nữ mà trời ban tặng
Lúc trước khổ đau, giờ đến ngọt bùi.

Biết làm chi với hoàng hôn tím đ
Trên bầu trời đang từng phút lạnh dần
Đ
ấy là nơi có tĩnh lặng thần tiên
Biết làm chi với dòng thơ bất tử?

Không hôn ai và không uống, không ăn
Khoảnh khắc trôi, không thể nào giữ lại
Ta vật vã khóc than, nhưng cứ phải
Tất cả đi qua, tất cả đi ngang.

Như đứa bé quên trò chơi của mình
Đ
ghé mắt ngó nhìn con gái tắm
Chẳng biết gì tình yêu, dù một bận
Vẫn bâng khuâng một mong ước kín thầm.

Như thuở nào trong khu rừng nguyên sinh
Vật bò sát rống lên vì bất lực
Khi cảm thấy vẫn hãy còn chưa mọc
Trên vai mình đôi cánh của loài chim.

Thế kỉ theo nhau, Trời hỡi, đến bao giờ?
Dưới dao mổ thiên nhiên và nghệ thuật
Linh hồn gào lên, xác thân suy kiệt
Và giác quan thứ sáu được sinh ra.


MỘT NIỀM VUI CHƯA TỪNG CÓ

Một niềm vui chưa từng có – dịu dàng
Ghé xuống bờ vai của anh chạm khẽ
Và bây giờ anh không cần gì nữa
Không hạnh phúc, và không muốn cả em.

Chỉ một điều, giá được nhậntất nhiên
Vẻ dịu êm màu vàng và tĩnh lặng
Cả mười hai nghìn foot đo mặt biển
Trên mái đầu bị xuyên thủng của anh.

Nghĩ suy chi, giá được âu yếm lòng
Từng hành hạ tiếng ồn và tĩnh lặng
Chỉ giá mà chưa bao giờ đã sống
Chưa bao giờ đã hát, đã yêu em.


KHÔNG CÓ GÌ THAY ĐỔI

Không, tất cả không có gì thay đổi
Trong thiên nhiên này tội nghiệp, giản đơn
Tất cả bừng lên một vẻ lạ thường
Của sắc đẹp không thể nào tả nổi

Vẻ như thế sẽ hiện ra, có lẽ
Thân xác con người đau ốm, gầy còm
Khi Thượng Đế từ bóng đêm tận cùng
Gọi thân xác bước lên giờ phán xử.

Em của tôi dịu dàng, kiêu hãnh thế
Hãy nhớ rằng chỉ với một mình em
Trắng như tuyết và mái tóc màu hung
Tôi tìm được chính mình trong giây lát.

Và em mỉm cườingười yêu dấu nhất
Nhưng mà em không hiểu một điều rằng
Tự thân em đang tỏa ánh hào quang
Và bóng đêm nào quanh em dày đặc.





KHÔNG CÒN EM

Không còn em u sầu và đỏng đảnh
Nhưng anh trao mình cho em đã từ lâu
Chính vì thế mà rất nhiều cuộc sống
Em biết cách bằng y chí gom vào.

Và ngày hôm nay bầu trời màu xám
Ngày qua trong cơn mê sảng rã rời
Sau cửa sổ, trên vườn hoa ướt sũng
Trò nhảy cừu những đứa trẻ không chơi.

Em ngắm nhìn những bức hình đã cũ
Và em đưa tay đ lấy mái đầu
Những hình dáng buồn cười vô nghĩa quá
Đ
i theo hàng thật buồn bã biết bao.

Em hãy nhìn, có thấymột con chim
Và người kị sĩ, ngựa nhanh chân bước
Nhưng thật lạ lùng, vì sao bực tức
Và chau mày cau có một ông quan.

Rồi em đọc anh nghe chuyện ông hoàng
Rất đằm thắm, sáng trong và mộ đạo
Đ
ầu ngón tay út của em chạm phải
Tay áo của anh khi lật từng trang.

Nhưng khi âm thanh của ngày lặng im
Trăng chiếu sáng trên bầu trời thành phố
Thì em bỗng vặn tay bất chợt quá
Và trở nên tái nhợt vẻ u buồn.

Đ
ứng trước em anh luống cuống vô cùng
Anh lặng im, ao ước về chỉ một:
Sao cho vĩ cầm hát lên ngào ngọt
Đ
em nghe cõi cực lạc bằng vàng.


CÂY LIỄU TRẮNG

Cây liễu trắng đen thẫm thân trên
Những con quạ nhẹ nhàng trong vội vã
Trong thung lũng bầu trời xanhxanh quá
Những đám mây như những chú cừu non.
Trong mắt em ánh lên vẻ ngoan hiền
Em yêu anh mất rồi” – em bảo thế
Cả bốn phía cỏ hoa như biển cả
Đ
ấy là một giờ sau buổi trưa êm.

Anh hôn lên những lưu bút ngày xanh
Bóng hoa cỏ trong màu hồng đôi má
Ngày vui ánh sáng thơm ngào ngạt quá
Thơm trên màu đồng của mái tóc xoăn.
Và anh cứ ngỡ em là ước mong
Là xứ sở mà anh chưa từng có
Có vẻ như đấy là miền đất hứa
Của bài ca, của rượu, của hân hoan.


TRÊN NHỮNG CON ĐƯỜNG

Trên những con đường mặt đất màu xanh
Anh hạnh phúc với phận mình tối mịt
Còn thơ ca? Em đọc chúng cho anh
Khi cúi xuống trên người anh bí mật.

Em xưa là nỗi cuồng điên của anh
Hay là trí khôn vô cùng kì lạ
Một khi nào đó thiên thần hung dữ
Từng nói cho con rắn đượm vẻ buồn:

Rồi sẽ trôi qua bóng tối nghìn năm
Ngươi sẽ đánh nhau trong lồng chật hẹp
Rồi Đức Thánh linh và cả Chúa con
Sẽ đi đến đây trước giờ phán xét.

Đ
ấy là những đấng cao hơn ta, và chỉ
Khi hạn kì đã định sẽ trôi đi
Thì ngôi sao buổi sớm lỗi lầm kia
Ngươi đến đây, kẻ có mắt buồn .

Người anh em của ta dịu dàng, có cánh
Xưa từng chúa tể hay kẻ khốn cùng
Vườn cực lạc sau những bức tường
Ta tìm thấy là khu vườn tuyệt đỉnh.

Nơi dòng nước ngọt ồn ào tí tách
Bàn tay ta kết gắn những bàn tay
Và ngôi sao buổi sớm dễ thương này
Ta không nhớ về chia ly kiếp trước.
1917


GIỮA LÒNG TÔI BÂY GIỜ

Giữa lòng tôi bây giờ đang ngưng tụ
Những lỗi lầm thật kì lạ, cuồng điên
Nàng như người phụ nữ thời thượng cổ
Đ
ứng trước những chàng rể của mình.

Nàng phải ngồi trong lâu đài dệt vải
Cúi ánh mắt nhìn xuống nghiêm khắc hơn
Đ
vượt qua niềm đam mê hoang dại
Và đ ghìm cơn nổi loạn dâng lên.

Nhưng nếu như trận đánh không cân sức
Thì tôi sẽ hồi tưởng lại lời thề
Và sẽ bước ra gian phòng yến tiệc
Cầm ly rượu tẩm thuốc độc kia.

Và cái chết sẽ đến theo lời gọi
Như Odyssey trong trận Pergamon*
Và tiếng thét gào của bao chàng rể
Dưới những mũi tên không chút tiếc thương.
__________
*
Pergamonthành phố Hy Lạp cổ đại Tiểu Á (nay là Thổ Nhĩ Kì).





HƯƠU CAO CỔ

Anh nhìn thấy ánh mắt buồn đặc biệt
Đô
i bàn tay thon đầu gối ôm lên.
Hãy nghe này: trên hồ Chad xa xăm
Hươu cao cổ thanh tao đang rảo bước.

Hươu được trời cho thân hình kiều diễm
Á
nh mắt thần tiên trang điểm bộ lông
Dám sánh cùng chỉ có mỗi ánh trăng
Khi nghiêng mình trên mặt hồ nước rộng.

Nhìn từ xa như cánh buồm rực rỡ
Bước chạy nhẹ nhàng như cánh chim bay
Biết bao kỳ diệu trên mặt đất này
Buổi hoàng hôn hươu đi vào hang đá.

Anh biết chuyện vui của những xứ bí huyền
Về cô gái da đen, về ông vua trẻ
Nhưng em hít vào màn sương nặng thế
Không điều gì ngoài mưa gió em tin.

Thì về khu vườn làm sao anh kể được
Và mùi hương, và cọem khóc chăng?
Hãy nghe này: trên hồ Chad xa xăm
Hươu cao cổ thanh tao đang rảo bước.


CÁNH RỪNG CỌ VÀ LÙM CÂY LÔ HỘI

Cánh rừng cọ và lùm cây lô hội
Dòng suối đục mờ màu bạc ánh lên
Bầu trời xanh tưởng chừng không điểm cuối
Và bầu trời vàng lên bởi ánh dương.

Mi còn mong gì nữa hở con tim
Chẳng lẽ hạnh phúc - dối gian hay cổ tích?
Và tại sao cho lòng tin kẻ khác
Kẻ rủ rê - mi ngoan ngoãn trao mình?

Chẳng lẽ mong uống thuốc độc nữa chăng
Muốn lần nữa đập trong cơn mê lửa
Chẳng lẽ mi không thể như hoa cỏ
Sống say mê theo ý trong vườn?


THIÊN NHIÊN

Và đây là tất cả cõi thiên nhiên
Mà linh hồn không thể nào nhận biết
Đâ
y đồng cỏ với mùi hương mật ngọt
Hương mật kia hoà quyện với hương đầm.

Đâ
y tiếng khóc hoang dã của gió cuồng
Như tiếng tru từ xa xăm của sói
Trên ngọn thông như ngựa phi nước đại
Là nước phi của những đám mây khoang.

Ta nhìn ra mặt và bắt hình dong
Ta nhìn ra tràn ngập lòng cơn giận
Chỉ một điều vẻ đa dạng nghèo nàn
Mà Tạo hoá đã từng gieo hạt giống.

Mặt đất đùa với ta đ làm gì
Hãy vứt đi những áo quần nghèo khổ
Và đáng lên như ngôi sao, vốn có
Xuyên ngang qua bằng ngọn lửa hồng kia.



Những trích đoạn triết lý:

1==
Есть Бог, есть мир, они живут вовек,
А жизнь людей - мгновенна и убога.
Но все в себе вмещает человек,
Который любит мир и верит в Бога.
**
Có Chúa và cuộc đời, hai thứ này là muôn thuở
Còn đời người là khoảnh khắc, là đau khổ ngập tràn
Nhưng con người vẫn chứa đựng tất cả trong mình
Vì con người yêu cuộc đời này và tin Chúa.

2==
Но любовь разве цветик алый,
Чтобы ей лишь мгновенье жить,
Но любовь разве пламень малый,
Что ее легко погасить?
**
Chẳng lẽ tình yêu là bông hoa đ
Đ
chỉ sống trong giây lát của mình
Chẳng lẽ tình yêu là ngọn lửa nhỏ
Đ
mà dễ dàng tắt nó sao em?

3==
Солнце, сожги настоящее
Во имя грядущего
Но помилуй прошедшее!
**
Xin mặt trời hãy đốt thiêu hiện tại
Đ
vì một ngày mai
Nhưng hãy tha cho quá khứ!

4==
Только змеи сбрасывают кожи,
Чтоб душа старела и росла.
Мы, увы, со змеями не схожи,
Мы меняем души, не тела.
**
Chỉ loài rắn trút bộ da của mình
Đ
cho linh hồn già đi và lớn
Còn chúng ta, than ôi, không giống rắn
Ta không thay được xác, chỉ thay hồn.

5==
Жаркое солнце поэта
n 
Блещет, как звонкая сталь.
Горе не знающим света!
Горе обнявшим печаль!
**
Hỡi mặt trời của nhà thơ nóng bỏng
Hãy ngân vang và nổi bật như chuông
Khổ thân ai không biết gì ánh sáng!
Khổ thân ai cứ ôm lấy nỗi buồn!

6==
И отвечала мне душа моя,
Как будто арфы дальние пропели:
"Зачем открыла я для бытия
Глаза в презренном человечьем теле?"
**
Linh hồn của tôi đã trả lời tôi
Giống như đàn hạc từ xa cất tiếng
Vì sự tồn tại mà ta xuất hiện
Mở mắt trong thân xác đáng khinh này”.

7==
Как сладко жить, как сладко побеждать
Моря и девушек, врагов и слово.
**
Thật ngọt ngào khi sống và chiến thắng
Biển và đàn bà, kẻ thù và tiếng.

8==

Ведь отрадней пения птиц,
Благодатней ангельских труб
Нам дрожанье милых ресниц
И улыбка любимых губ.
**
Nghe hân hoan hơn tiếng hót của chim
Và ân huệ hơn kèn của thiên thần
Là run rẩy của bờ mi yêu dấu
Và nụ cười trên môi của người thương.

9==
Мечтаю я, чтоб сказали
О России, стране равнин:
Вот страна прекраснейших женщин
И отважнейших мужчин.
**
Tôi ước mong cho người ta truyền miệng
Về nước Nga, xứ sở những đồng bằng:
Đ
ấy là đất nước phụ nữ đẹp xinh
Xứ sở của những đàn ông dũng cảm.

10==
Но забыли мы, что осиянно
Только слово средь земных тревог
И в Евангелии от Иоанна
Сказано, что Слово – это Бог.
**
Nhưng chúng ta quên mất rằng sáng tỏ
Chỉ là lời giữa lo lắng trần gian
Và trong Kinh Phúc Âm của Thánh Giăng
Đã
nói rằng Lờichính là Thiên Chúa.

11==
Я знаю, что деревьям, а не нам,
Дано величье совершенной жизни,
На ласковой земле, сестре звездам,
Мы – на чужбине, а они – в отчизне.
**
Tôi biết rằng cây chứ không phải ta
Đư
ợc trời ban cho cuộc đời hoàn mỹ
Trên mặt đất, chị em với sao xa
Ta quê người, còn câyquê mẹ.


Thơ Taras Shevchenko


Taras Hryhorovych Shevchenko (tiếng Ukraina: Тарáс Григóрович Шевчéнко; 9 tháng 3 năm 1814 – 10 tháng 3 năm 1861) là Đại thi hào dân tộc, họa sĩ, viện sĩ, chiến sĩ đấu tranhvì dân tộc Ukraina, người phát triển và hoàn thiện nền văn học mới và ngôn ngữ mới của Ukraina.

Taras Shevchenko sinh tại làng Moryntsy, châu Kiev, Đế quốc Nga (nay là tỉnh Cherkasy của Ukraina). Là con một gia đình nông nô, cũng như cả gia đình mình, Taras là sở hữu của địa chủ Pavlo Engelhardt. Chín tuổi ông mồ côi mẹ, ba năm sau mồ côi cha, vì thế từ nhỏ Taras đã phải lao động vất vả chăn dắt gia súc ngoài đồng cỏ. Mười lăm tuổi Taras được xung vào đám "tiểu đồng" cần vụ của chủ. Sớm nhận ra những tài năng của cậu bé Taras, Pavel Engelhardt đã gửi cậu học vẽ cùng họa sĩ Jan RustemĐại học Vilnius. Sau khi chuyển đến Saint Petersburg, Shevchenko được tiếp tục học vẽ bốn năm. Ngày 22 tháng 4 năm 1838, chàng trai Taras được một số văn nghệ sĩ Nga bỏ tiền ra trả cho địa chủ Engelhardt để chuộc thành người tự do. Taras Shevchenko trở thành sinh viên Học viện Mỹ thuật, trực tiếp theo học danh họa Karl Pavlovich Briullov.

Ngoài việc học vẽ ở Học viện Mỹ thuật, Shevchenko còn say mê sáng tác thơ ca. Tập thơ đầu tay nhỏ bé của Shevchenko có tên là Người hát rong (Kobzar) xuất bản năm 1840 nhờ tiền của một người bạn Ukraina của mình. Tập thơ nhỏ, chỉ với 8 bài thơ và trường ca này đã gây một ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc Ukraina cũng như người đọc Nga.

Năm 1841, Shevchenko sáng tác bản trường ca lớn Haydamaky miêu tả cuộc khởi nghĩa nông dân 1768. Cũng như tập thơ đầu tay Người hát rong, bản trường ca Haydamaky đã thành công lớn. Tiếp theo xuất hiện những tác phẩm thơ ca khác đều có giá trị: Hamalya, Trizna, Giấc mơ v.v.

Năm 1845, Shevchenko tốt nghiệp Học viện Mỹ thuật, và trở về Ukraina bắt đầu làm việc tại ủy ban khảo cổ học. Vì giao du với các thành viên trí thức tiến bộ, đặc biệt là với nhà hoạt động xã hội Nicolay Kostmarov, tham gia Hội ái hữu Thánh Cyril và Methodius –một tổ chức chính trị hoạt động bí mật ở Kiev nhằm chống lại chế độ nông nô, Shevchenko đã bị bắt cùng 10 người khác trong tổ chức. Tất cả những người này phải chịu những hình phạt khác nhau vì tội tổ chức các hoạt động chính trị, trong đó Shevchenko bị hình phạt nặng nhất vì trường ca Giấc mơ đã châm biếm hoàng hậu. Shevchenko bị đầy đi làm lính trơn ở tiểu đoàn tiền phương Orenburg, bị cấm sáng tác và đã phải sống ở nơi lưu đày xa xôi hẻo lánh suốt mười năm ròng.

Các năm 1848 – 1849 Shevchenko được tham gia đoàn thám hiểm ở biển Aral. Với sự ưu ái của các sĩ quan ở đây, Shevchenko được tự do sáng tác và kết quả là có nhiều tác phẩm thơ cũng như hội họa được sáng tác trong thời kỳ này.

Sau khi Sa hoàng Aleksandr II lên ngôi, năm 1857, Shevchenko được trả tự do. Ông được trở về Nizhny Novgorod, sau đó về Sankt-Peterburg. Thời kỳ này Shevchenko tiếp tục viết, vẽ và tập hợp những sáng tác trong thời kỳ lưu đày.

Năm 1859 ông về thăm quê hương Ukraina. Ngày 2 tháng 9 năm 1860 Shevchenko được phong Viện sĩ của Viện hàn lâm Nghệ thuật. Năm 1860, tại Saint Petersburg, Shevchenko cho xuất bản lại bản mới của tập thơ Người hát rong (Kobzar).

Sau những năm tháng cơ cực tù đầy, Shevchenko có dự định trở về Ukraina sinh sống, đã có ý định mua đất làm nhà ở Ukraina và sẽ cưới vợ nhưng ông đã lâm bệnh hiểm nghèo. Buổi sáng ngày 10 tháng 3 năm 1861, Taras Hryhorovych Shevchenko qua đời.

Ông được chôn cất tại nghĩa trang Smolensky ở Saint Petersburg. 58 ngày sau đó, theo như Lời di chúc của Taras Shevchenko, hài cốt của ông được đem về an táng tại Đồi Chernecha (nay là Đồi Taras), thành phố Kaniv, tỉnh Cherkasy, bên sông Dnepr.

Di sản văn học của Taras Shevchenko được coi là nền tảng của văn học Ukraina, và đến một mức độ lớn hơn, là nền tảng của ngôn ngữ Ukraina hiện đại. Taras Shevchenko là người đầu tiên nâng thơ ca Ukraina lên ngang tầm các nền thơ khác của châu Âu.

Taras Shevchenko trở thành biểu tượng của dân tộc Ukraina. Trong lịch sử văn học thế giới, tên tuổi của ông đứng ngang hàng với những thiên tài về ngôn ngữ như Pushkin, Goethe, Maeterlinck... Thơ của ông được dịch ra hơn hai trăm thứ tiếng của thế giới.

Ngoài thơ ca, Taras Shevchenko còn để lại một số lượng lớn các tác phẩm văn xuôi (phần nhiều được viết bằng tiếng Nga) và một số lượng lớn các tác phẩm hội họa có giá trị về mặt nghệ thuật.

Di sản thơ ca của Taras Shevchenko là rất đồ sộ. Tuy nhiên, có thể nói rằng tất cả sức mạnh văn học của Shevchenko là ở tác phẩm Người hát rong (Kobzar). Nhìn bên ngoài, khối lượng của Người hát rong không lớn, nhưng nội dung bên trong lại là một tượng đài văn học phức tạp và phong phú: đấy là ngôn ngữ tiếng Ukraina trong lịch sử phát triển của nó, là chế độ nông nô và cuộc sống nhà binh khắc nghiệt cùng với những hoài niệm về ý chí tự do của phong trào Cô-dắc. Ở đây có một sự kết hợp tuyệt vời từ các ảnh hưởng: một mặt, từ ảnh hưởng của nhà triết học Ukraina, HryhoriiSkovoroda và từ những người hát rong dân gian, mặt khác – ảnh hưởng của Mickiewicz, Zhukovsky, PushkinLermontov. Trong Người hát rong có vùng đấtthánh Kiev, có vùng thảo nguyên Zaporizhia, có cảnh điền viên của đời sống nông dân Ukraina bình dị – tất cả đấy là nguyên khí của quốc gia với những khía cạnh đặc sắc từ vẻ đẹp, vẻ trầm tư và nỗi buồn đặc trưng Ukraina. Thơ ca của Taras Shevchenko xuất phát từ thơ ca dân gian, gắn liền với sử thi Cô-dắc, với văn hóa cổ Ukraina và một phần văn hóa Ba Lan cũng như gần gũi với nhiều hình tượng trong Câu chuyện về cuộc hành binh Igor.

Tuy nhiên, thơ Shevchenko càng hay bao nhiêu, càng đặc sắc bao nhiêu thì khi dịch ra ngôn ngữ khác sẽ càng khó bấy nhiêu. Khó khăn lớn nhất trong việc nghiên cứu và dịch thơ Shevchenko ở chỗ là thơ ông thấm đượm tinh thần dân tộc, hòa quyện chặt chẽ với lời ru tiếng hát, với ngôn ngữ dân gian. Trong thơ ông hầu như không thể xác định được ở đâu là nơi thơ ca dân gian Ukraina kết thúc và ở đâu là nơi bắt đầu sáng tạo riêng của Shevchenko. Đây lại là trở ngại chính trong việc dịch thơ Taras Shevchenko ra các ngôn ngữ khác (trừ các ngôn ngữ thuộc nhóm Slavơ), đặc biệt là khi dịch ra tiếng Việt.

Thơ Taras Shevchenko lần đầu tiên được nhà thơ Tế Hanh dịch 2 bài ra tiếng Việt qua tiếng Pháp từ năm 1959. Năm 1961, kỷ niệm 100 ngày mất của nhà thơ, báo Văn học đăng một số bài thơ do Thúy Toàn và Nguyễn Xuân Sanh dịch từ tiếng Nga tiếng Pháp. Kể từ đó, thơ của ông được một số người khác trích hoặc phỏng dịch qua các ngôn ngữ trung gian và đã đăng trên các báo, tạp chí của Việt Nam, tuy nhiên có thể nói rằng các bản dịch này có số lượng ít ỏi và chất lượng thì còn khoảng cách với tinh thần của thơ Taras Shevchenko.

Năm 2004 nhân dịp kỷ niệm 190 năm ngày sinh Taras Shevchenko, Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản cuốn Thơ Taras Shevchenko gồm 36 bài thơ cùng với lời giới thiệu của ngài Pavlo Sultansky – Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Ukraina tại Việt Nam. Đây là quyển Thơ Taras Shevchenko được Nguyễn Viết Thắng dịch trực tiếp từ nguyên bản tiếng Ukraina sang tiếng Việt.

Năm 2012, Hội Nhà văn Việt Nam in cuốn Thơ Taras Shevchenko gồm phần 1: 36 bài thơ in song ngữ Ukraina – Việt và phần 2: tập hợp tất cả các lần giới thiệu Taras Shevchenko tại Việt Nam kể từ năm 1959 cùng với phần dịch cũng như trích dịch, phỏng dịch thơ Taras Shevchenko sang tiếng Việt.

Hiện nay Nguyễn Viết Thắng đang thực hiện dự án "Taras Shevchenko – 150 bài thơ và trường ca". Đến thời điểm hiện tại đã có hơn 100 bài được dịch ra tiếng Việt, trong số này có những tập thơ quan trọng như Người hát rong, Thơ viết trong tù… hay các trường ca nổi tiếng như Katerina, Haydamaky… đã được dịch ra tiếng Việt.  


Trích 1 bài trong tập "Người Hát Rong"

CÂY DƯƠNG

Tiếng gió hú trong rừng
Gió đi dạo trên đồng
Gió làm cho cúi xuống
Sát đất một cây dương.
Thân cao và lá rộng
Màu xanh đến lạ lùng
Đồng ruộng, như đại dương
Bao la và xanh thắm.
Người buôn nhìn cây dương
Thấy lòng mình trĩu nặng
Người chăn cừu buổi sáng
Ngồi trên nấm mồ con
Thấy tê tái cõi lòng
Nhưng không còn gì hết
Cây dương đang dần chết
Nơi xứ lạ, cô đơn!

Chuyện vì đâu, do ai
Mà nên nông nỗi vậy?
Kể cho các cô gái
Xin hãy lắng nghe này.
Một cô gái mắt đen
Yêu một chàng Cô-dắc
Chàng cũng yêu thương nàng
Rồi ra đi và chết…
Giá như mà biết trước
Thì đã chẳng yêu đương
Giá biết chàng sẽ chết
Thì đã không buông chàng.
Giá như mà biết được
Thì không đợi đến đêm
Đã không đi lấy nước
Để gặp gỡ với chàng
Giá như mà biết được!...

Bởi vì không biết được
Điều phía trước đang chờ
Bởi thế mà số kiếp
Đừng căn vặn làm chi
Nhưng con tim biết được
Yêu ai. Cứ yêu đi
Một khi còn chưa về
Nằm ngủ yên dưới đất.
Bởi vì đôi mắt đẹp
Đâu có được lâu dài
Bởi vì trên gương mặt
Màu hồng đỏ chóng phai
Chỉ được đến nửa ngày
Lông mày đen phai nhạt
Em hãy yêu, hãy yêu
Như con tim vẫn biết.

Sơn ca cất tiếng hót
Trên cành cây kim ngân
Người Cô-dắc khẽ hát
Trong thung lũng một mình
Cô gái từ nhà tranh
Ra với người gặp gỡ
Người Cô-dắc hỏi nhỏ:
"Mẹ có đánh em không?"
Họ bên nhau, rất gần
Chim sơn ca vẫn hát
Gặp gỡ rồi ly biệt
Con tim đập rộn ràng…
Không ai nhìn thấy họ
Không có ai hỏi cả:
"Em ở đâu, với ai?"
Chỉ mình nàng biết thôi.
Đã yêu và dan díu
Con tim đã tái tê
Tim cảm nhận điều chi
Không biết cách bày tỏ
Chưa nói – còn lại đó
Vẫn ngày đêm thỏ thẻ
Bồ câu chẳng có đôi
Không ai nghe thấy cả…

Sơn ca không hát nữa
Bên hồ nước, trong rừng
Cô gái giờ không còn
Hát bên cây liễu nhỏ.
Đừng hát – cô đơn ạ
Cả thế giới hoang tàn
Không có chàng – người thân
Cũng là người xa lạ.
Thiếu chàng, vầng dương nhỏ
Như kẻ thù đang cười
Những nấm mồ khắp nơi…
Mà con tim rộn rã.

Một năm, hai năm qua
Người thương chẳng trở về
Nàng như hoa khô héo
Lặng lẽ như nấm mồ.
Mẹ không hỏi: "Điều gì
Mà nên nông nỗi vậy?"
Mẹ tìm cho con gái
Người giàu có nhưng già.
"Con về với người ta
Hãy nghe theo lời mẹ
Người cô đơn, giàu có
Con là một quý bà!"

"Con không làm quý bà
Con không đi đâu cả
Thà mẹ đem con mẹ
Chôn vùi xuống nấm mồ.
Thà rằng con nằm nghe
Lời nguyện cầu, than khóc
Thà rằng con sẽ chết
Hơn làm vợ ông già".

Bà mẹ không đầu hàng
Mẹ làm, như mẹ muốn
Cô gái đôi mắt đen
Héo hon và im lặng.
Rồi sau nàng quyết định
Tìm thầy bói trong đêm
Xem bao ngày được sống
Có còn gặp người thương?
"Bà yêu dấu của con
Tấm lòng con chân thành
Cho con biết sự thật
Những điều con ước mong.
Người yêu dấu của con
Còn sống, còn khỏe mạnh
Và có còn yêu mến
Hay đã bỏ rơi con.
Bà yêu dấu của con
Như bà cũng đã biết
Mẹ già con bắt ép
Con phải đi lấy chồng
Nhưng người đó con không
Một chút nào yêu hết
Con đã muốn trầm mình
Chỉ lòng còn thương tiếc.
Nếu người yêu con chết
Xin bà hãy làm cho
Để con không quay về
Không quay về nhà nữa
Ở nhà người ta đã
Chuẩn bị để cưới con".
"Được thôi, nhưng mà con
Nghe lời ta khuyên nhủ
Đau khổ ta cũng từng
Nên giờ ta hiểu rõ
Dù đã qua tất cả
Ta học được bao điều
Chuyện của con gái yêu
Ta từ lâu biết rõ
Ta từ lâu chuẩn bị
Một liều thuốc cho con."

Nói xong bà liền mang
Thứ thuốc đen như mực
"Con hãy lấy thuốc này
Rồi đứng kề bên giếng
Khi gà chưa gáy sáng
Hãy rửa mặt rửa mày
Sau đó con hãy uống
Và đừng sợ gì nghe!
Con cũng đừng nhìn xa
Dù tiếng kêu ở đó
Chạy đến nơi con đã
Chia tay với người ta.
Lúc đó giữa trời xa
Một vầng trăng sáng tỏ
Con uống thêm lần nữa
Chưa thấy – tiếp lần ba.
Sau lần một quay về
Với ngày xưa thiếu nữ
Sau lần hai – từ xa
Dồn dập bàn chân ngựa
Nếu người yêu còn đó
Sẽ lập tức quay về
Còn sau lần thứ ba…
Tốt nhất đừng hỏi nữa.
Đừng hỏi nữa, bởi vì
Tất cả vào trong nước
Bây giờ con hãy đi
Nhìn vẻ xưa nét đẹp".

Thế là nàng lấy thuốc
"Con xin cảm ơn bà"
Nàng lặng lẽ bước ra
Nghĩ: "Chắc không về được!"
Nàng rửa mặt, uống thuốc
Và không chỉ một lần
Mà ba lần liên tục
Rồi khóc và hát lên:

"Thiên nga của ta ơi
Hãy bơi đi trên biển
Cây dương của ta ơi
Hãy cao lên, hãy lớn
Hãy cao và thanh mảnh
Chạm tới đám mây kia
Hỏi trời: người ta yêu
Có còn yêu ta nữa?
Và cây dương hãy nhìn
Về bên kia biển cả
Vì bên kia – vui mừng
Còn bên này – đau khổ
Người yêu ta đâu đó
Đang rảo bước trên đồng
Mặc ta khóc, tháng năm
Phí hoài vì người đó.
Hãy nói rằng: thiên hạ
Đang chế giễu, đang cười
Ta sẽ chết, nếu người
Không còn quay về nữa!
Cả mẹ ta cũng thế
Mẹ muốn đem chôn vùi
Nhưng rồi ai sau này
Sẽ chăm lo cho mẹ
Biết lấy ai giúp đỡ
Ai an ủi mẹ già?
Ôi mẹ, mẹ của ta
Ôi người yêu, lạy Chúa!
Nếu người ta yêu thương
Không còn bên kia biển
Ngươi hãy khóc về đêm
Thâu đêm và suốt sáng
Cây dương ơi hãy lớn
Và cao hướng bầu trời
Còn thiên nga hãy bơi
Về phía bên kia biển!"

Nàng đã khóc và hát
Những câu hát đau buồn
Mặc cho người kinh ngạc
Nàng biến thành cây dương.
Không trở về nhà mình
Hạnh phúc chưa được hưởng
Cây dương cao, thanh mảnh
Vươn tới tận mây xanh.
Tiếng gió hú trong rừng
Gió đi dạo trên đồng
Gió làm cho cúi xuống
Sát đất một cây dương.

Xem thêm:


101 bài thơ và trường ca Song Ngữ: