Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Tư, 8 tháng 2, 2017

Thơ Mikhail Lermontov

Mikhail Yuryevich Lermontov (tiếng Nga: Михаи́л Ю́рьевич Ле́рмонтов, 15 tháng 10 năm 1814 – 27 tháng 7 năm 1841) – nhà thơ, nhà văn Nga, là nhà thơ lớn của Nga sau Pushkin. 

Trong sáng tạo của Lermontov có sự kết hợp giữa các mô típ dân sự, triết học và cá nhân, đáp ứng nhu cầu cấp bách của đời sống tinh thần của xã hội Nga, đánh dấu một bước phát triển mới của văn học Nga và đã có sự ảnh hưởng lớn đến các nhà văn, nhà thơ Nga nổi bật nhất của thế kỷ XIX và XX. Tác phẩm của Lermontov nhận được sự phản ứng mạnh mẽ trong hội họa, sân khấu và điện ảnh. Thơ của ông đã trở thành một kho báu thật sự cho nhạc kịch opera, giao hưởng và nghệ thuật lãng mạn, nhiều tác phẩm trong số này đã trở thành những bài hát dân gian. 

Cuộc đời: 
Mikhail Yuryevich Lermontov sinh ở Moskva trong một gia đình có gốc gác từ Scotland. Mẹ mất sớm nên Lermontov được bà ngoại nuôi dạy. Từ nhỏ đã thông thạo tiếng Pháp, tiếng Đức. Năm 1825 bà ngoại đưa Lermontov đi về vùng Kapkage. Kí ức tuổi thơ trước phong cảnh thiên nhiên của vùng Kapkage in đậm trong nhiều sáng tác của ông. Năm 1827 trở lại Moskva, Lermontov vào học tại học xá Moskva, đến năm 1830 học xá trở thành gymnazy thì nghỉ học, sau đó vào học Đại học Moskva nhưng hai năm sau lại nghỉ học. Theo lời khuyên của một người bạn, Lermontov vào học trường võ bị Peterburg. Sau khi tốt nghiệp đi về vùng Kapkage phục vụ. Thời gian ở Kapkage, trong một vụ xích mích với Martynov, người trước đây từng là bạn học ở trường võ bị, đã quyết định đấu súng và bị giết chết. 

Thơ ca: 
Cuộc đời của Lermontov chỉ vỏn vẹn có 27 năm nhưng di sản thơ ca mà ông để lại cho đời vô cùng to lớn. Lermontov giữ một vị trí đặc biệt trong thơ ca Nga. Nhà phê bình Belinsky viết: “Trong thơ của Lermontov là tất cả sức mạnh, là tất cả yếu tố để làm nên cuộc đời và thơ ca: một sức mạnh bền vững của tâm hồn, sự nhún nhường của than vãn, mùi hương của lời cầu nguyện, một sự khích lệ như sóng gió ba đào, một nỗi buồn tĩnh lặng, một nỗi trầm tư dịu dàng, những lời thở than kêu hãnh, những tiếng kêu la tuyệt vọng, vẻ đằm thắm bí huyền của tình cảm, những ước mong táo bạo không thể ngăn kìm, sự trong trắng trinh nguyên, những bệnh tật của xã hội, những bức tranh của thế giới, những lời quở trách của lương tâm, sự hối hận đến mủi lòng, sự thổn thức của đam mê và những giọt nước mắt lặng lẽ rót vào sóng gió của con tim, sự hoan hỉ của tình, lo âu của ngày ly biệt, niềm vui của ngày gặp mặt, sự coi khinh vẻ đơn điệu của đời thường, sự khát khao điên cuồng của vẻ hân hoan, một lòng tin cháy bừng như ngọn lửa và nỗi khổ của sự trống vắng trong tâm hồn, tiếng kêu than xua đi cảm giác về một cuộc đời đang chết lặng, chất độc của phủ nhận, vẻ lạnh lùng của mối nghi ngờ, ác quỉ ngạo mạn và đứa bé ngây thơ, vẻ ngang tàng của kẻ rượu chè và cô gái ngây thơ trong trắng – tất cả, tất cả trong thơ này: và bầu trời, và mặt đất, và thiên đàng, và địa ngục”. 

Với vẻ phong phú về ý tưởng và mô-típ kể trên, có thể chia sáng tác của Lermontov thành 2 giai đoạn: giai đoạn thứ nhất đến năm 1835 và giai đoạn thứ hai là những năm còn lại của cuộc đời thơ ngắn ngủi. Ở giai đoạn đầu Lermontov sáng tác bằng trí tưởng tưởng, bằng cảm nhận về thế giới xung quanh mình: sự đấu tranh không khoan nhượng của hai mặt đối lập giữa trời và đất, qua đó nhìn ra nguyên nhân của bi kịch cuộc đời mình. Giai đoạn thứ hai nhà thơ đã gần hơn với thực tế qua sự với tiếp xúc nhiều với những con người và đời sống xã hội. Như một người theo thuyết nhị nguyên luận, nhà thơ cảm nhận vẻ hai mặt của con người “trong khoảng trung gian kinh hoàng giữa hai cuộc đời”. 

Tác phẩm: 

- Anh hùng của thời đại chúng ta (Герой Нашего Времени, СПб., 1840)
- Thơ M. Lermontov ( Стихотворения М. Лермонтова, СПб., 1840) 
- Tác phẩm của Lermontov (Сочинения Лермонтова, СПб., 1847)
- Tác phẩm của Lermontov (Сочинения Лермонтова, СПб., 1860)
- Tác phẩm của Lermontov (Сочинения Лермонтова, СПб., 1880)
- Lermontov – Thơ và đời (Жизнь и творчества Лермонтова, М., 1889-1891)
- Tác phẩm của Lermontov (Сочинения Лермонтова, тома I-V, (М., 1891)
- Toàn tập tác phẩm của Lermontov (Полное собрание сочинений Лермонтова, СПб., 1903) 




Một số bài thơ

1.LÃO ĂN MÀY
(Нищий)

Bên cánh cổng của một nhà thơ nọ
Có một người nghèo khổ đứng ăn xin
Ông lão xác xơ, tàn tạ, gầy còm
Vì đói khát và vì bao đau khổ.

Chỉ mẩu bánh mì ông lão đứng xin
Đôi mắt lão là hiện thân đau khổ
Thế mà có ai đó đem viên đá
Đặt vào bàn tay ông lão giơ lên.

Anh cũng thế, chỉ van vỉ chút tình
Trong nước mắt đắng cay, anh buồn bã
Nhưng tình cảm của anh chân thành đó
Đã bị em lừa dối đến ngàn năm.
1830


Нищий

У врат обители святой
Стоял просящий подаянья
Бедняк иссохший, чуть живой
От глада, жажды и страданья.

Куска лишь хлеба он просил,
И взор являл живую муку,
И кто-то камень положил
В его протянутую руку.

Так я молил твоей любви
С слезами горькими, с тоскою;
Так чувства лучшие мои
Обмануты навек тобою!


2.ĐỪNG NGHĨ RẰNG TÔI ĐÃ TỪNG NUỐI TIẾC
К... (Не думай, чтоб я был достоин сожаленья...)

Đừng nghĩ rằng tôi đã từng nuối tiếc
Dù bây giờ lời buồn bã đau thương
Không! Tất cả bao khổ đau cay nghiệt –
Điềm báo trước điều bất hạnh lớn hơn.

Tôi trẻ trung: tiếng động sôi trong tim
Tôi ước ao được sánh cùng Bai-rơn:
Vì chung hồn, vì chung bao đau khổ
Ôi, giá mà số kiếp cũng cùng chung!.. 

Tìm tự do, quên lãng như Bai-rơn
Như Bai-rơn, tôi hừng hực lửa lòng
Yêu hoàng hôn trên đồi, dòng nước bọt
Bão giông trên trời và ở trần gian.

Như Bai-rơn, tĩnh lặng tôi đi tìm
Nhưng vô ích, bị đuổi khắp trần gian
Nhìn quá khứ - thật vô cùng kinh hãi
Còn tương lai – chẳng có một hồn thân!
1830


К *** (Не думай, чтоб я был достоин...)
(Прочитав жизнь Байрона [написанную] Муром)

Не думай, чтоб я был достоин сожаленья,
Хотя теперь слова мои печальны;- нет;
Нет! все мои жестокие мученья -
Одно предчувствие гораздо больших бед.

Я молод; но кипят на сердце звуки,
И Байрона достигнуть я б хотел:
У нас одна душа, одни и те же муки;
О, если б одинаков был удел!..

Как он, ищу забвенья и свободы,
Как он, в ребячестве пылал уж я душой,
Любил закат в горах, пенящиеся воды
И бурь земных и бурь небесных вой.

Как он, ищу спокойствия напрасно,
Гоним повсюду мыслию одной.
Гляжу назад - прошедшее ужасно;
Гляжу вперед - там нет души родной!


3.TẤT CẢ LẶNG IM
(Все тихо - полная луна)

Tất cả lặng im – trăng tròn vành vạnh
Chiếu sáng lên những cây liễu trên đầm
Và ở gần bên mép bờ con sóng
Với tia sáng lạnh lùng nhảy cẫng lên.
1830


Все тихо - полная луна

Все тихо - полная луна
Блестит меж ветел над прудом,
И возле берега волна
С холодным резвится лучом.


4.GỬI SUSHKOVA
(К Сушковой)

Gần gũi bên em bấy lâu nay
Không nghe lửa cháy giữa ngực này
Ánh mắt yêu kiều kia có gặp
Mà tim không đập giữa lòng tôi.

Âm thanh đầu tiên của biệt ly
Từng làm tôi run rẩy như gì
Nhưng không báo trước niềm đau khổ
Tôi không yêu – giấu để mà chi!

Nhưng dù một ngày, dù một giờ
Tôi vẫn còn nán lại để cho
Ánh mắt diệu kỳ kia tỏa sáng
Xua giữa hồn này mối âu lo.
1830


К Су[шковой]

Вблизи тебя до этих пор
Я не слыхал в груди огня.
Встречал ли твой прелестный взор -
Не билось сердце у меня.

И что ж?- разлуки первый звук
Меня заставил трепетать;
Нет, нет, он не предвестник мук;
Я не люблю - зачем скрывать!

Однако же хоть день, хоть час
Еще желал бы здесь пробыть,
Чтоб блеском этих чудных глаз
Души тревоги усмирить.


5.GỬI NGƯỜI ĐẸP NGU DỐT
(Глупой красавице)

1
Có một hôm thần tình yêu đã hỏi
Rằng tôi thích uống rượu của ngài không –
Tôi không hề thấy khát gì khi ấy
Nhưng vẫn nâng chén rượu uống đến cùng.

2
Giá bây giờ mong muốn – chẳng ích gì
Đem làm ướt đôi bờ môi nóng bỏng
Để làm gì, khi chén của đam mê
Giống như cái đầu của em – trống rỗng.
1830


Глупой красавице

         1
Амур спросил меня однажды,
Хочу ль испить его вина -
Я не имел в то время жажды,
Но выпил кубок весь до дна.

         2
Теперь желал бы я напрасно
Смочить горящие уста,
Затем, что чаша влаги страстной,
Как голова твоя - пуста.


6.ĐỪNG NÓI
(Не говори: я трус, глупец!..)

Đừng nói rằng: tôi nhát gan, dại dột!..
Nếu sự bắt đầu tăm tối của đời
Đã từng hành hạ như thế với tôi
Thì sẽ ra sao đây khi kết thúc?..
1830


К *** (Не говори...)

Не говори: я трус, глупец!..
О! если так меня терзало
Сей жизни мрачное начало,
Какой же должен быть конец?..


7.CHÉN CUỘC ĐỜI
(Чаша жизни)

1
Ta uống từ chén tồn tại
Bằng đôi mắt nhắm của mình
Và ta làm ướt viền vàng
Bằng giọt nước mắt tê tái.

2
Một khi đứng trước cái chết
Nút thắt rơi từ đôi mắt
Những gì từng quyến rũ ta
Cùng với nút này biến mất.

3
Thì khi đó ta nhìn ra
Chiếc chén vàng này trống rỗng
Nước trong đó – là giấc mộng
Mà giấc mộng này không của ta!
1831


Чаша жизни

         1
Мы пьем из чаши бытия
   С закрытыми очами,
Златые омочив края
   Своими же слезами;

         2
Когда же перед смертью с глаз
   Завязка упадает,
И все, что обольщало нас,
   С завязкой исчезает;

        3
Тогда мы видим, что пуста
  Была златая чаша,
Что в ней напиток был - мечта,
  И что она - не наша!



8.HÃY ĐỂ TÔI YÊU
(Пусть я кого-нибудь люблю)

Hãy để tôi yêu một ai đấy khác
Tình không hề trang điểm cuộc đời tôi
Tình giống như một vết nhơ dịch hạch
Dù tối tăm, thiêu đốt giữa tim này
Tôi bị xua đuổi bằng sức thù nghịch
Tôi sống bằng thứ mà người khác chết:
Tôi sống – như chúa tể của bầu trời
Trong thế giới tuyệt vời – nhưng chỉ một.
1831


Пусть я кого-нибудь люблю

Пусть я кого-нибудь люблю:
Любовь не красит жизнь мою.
Она как чумное пятно
На сердце, жжет, хотя темно;
Враждебной силою гоним,
Я тем живу, что смерть другим:
Живу - как неба властелин -
В прекрасном мире - но один.


9.THIÊN THẦN
(Ангел)

Một thiên thần đã bay giữa trời đêm
Và đã hát một bài ca thầm lặng
Cả trăng, sao và mây đen từng đám
Đều lắng nghe khúc hát của thiên thần.

Thiên thần hát về những niềm hạnh phúc
Của những hồn thanh sạch chốn thiên đàng
Thần hát về Thiên Chúa, và lời khen
Của thiên thần là vô cùng chân thật.

Thiên thần ôm trong tay linh hồn trẻ
Cho cuộc đời đầy nước mắt khổ đau
Lời hát của thần trong linh hồn trẻ
Dù không lời nhưng sống động biết bao.

Linh hồn mỏi mệt ở chốn trần gian
Rất lâu bằng một ước mong kỳ lạ
Và khúc hát buồn ở nơi trần thế
Không thể thay âm điệu của trời xanh.
1831


Ангел

По небу полуночи ангел летел,
   И тихую песню он пел,
И месяц, и звезды, и тучи толпой
   Внимали той песне святой.

Он пел о блаженстве безгрешных духов
   Под кущами райских садов,
О Боге великом он пел, и хвала
   Его непритворна была.

Он душу младую в объятиях нес
   Для мира печали и слез;
И звук его песни в душе молодой
   Остался - без слов, но живой.

И долго на свете томилась она,
   Желанием чудным полна,
И звуков небес заменить не могли
   Ей скучные песни земли.


10.CÁC BẠN KHÔNG BIẾT
(Вы не знавали князь Петра)

Các bạn không biết gì ngài công tước
Pyotr đang nhảy và viết sao
Vì đôi chân của ông và ngòi bút
Mà lũ ngu ở Mát có yên đâu
Giá mà lúc này ông ta chỉ mệt
Mỗi đôi chân – mà không phải cái đầu.
1831


Вы не знавали князь Петра

Вы не знавали князь Петра;
Танцует, пишет он порою,
От ног его и от пера
Московским дурам нет покою;
Ему устать бы уж пора,
Ногами — но не головою.


11.HÃY Ở LẠI CÙNG ANH 
(K*** - Будь со мною, как прежде бывала)

Hãy ở lại cùng anh như lần trước 
Hãy nói với anh, dù chỉ một câu 
Để hồn anh trong những lời tìm được 
Điều tâm hồn mong đợi đã từ lâu. 

Nếu những tia hi vọng còn gìn giữ 
Trong tim này – chắc chúng sẽ hồi sinh 
Nếu còn có thể tuôn ra dòng lệ 
Trong mắt này – chắc chúng sẽ trào lên. 

Có những lời mà không thanh minh nổi 
Vì điều này, chúng quyền lực với anh 
Những lời này làm cho anh sống lại 
Nhưng không làm cho kẻ khác hồi sinh. 

Em hãy tin rằng những lời buốt giá 
Chúng chỉ làm cho vấy bẩn bờ môi 
Như những cánh hoa của bông hoa nhỏ 
Chúng giống như nọc rắn độc giết người!
1831


 Будь со мною, как прежде бывала

Будь со мною, как прежде бывала;
   О, скажи мне хоть слово одно;
Чтоб душа в этом слове сыскала,
   Что хотелось ей слышать давно;

Если искра надежды хранится
   В моем сердце - она оживет;
Если может слеза появиться
   В очах - то она упадет.


Есть слова - объяснить не могу я,
   Отчего у них власть надо мной;
Их услышав, опять оживу я,
   Но от них не воскреснет другой;

О, поверь мне, холодное слово
   Уста оскверняет твои,
Как листки у цветка молодого
   Ядовитое жало змеи!


12.EM CỨ GỌI GIẤC MƠ LÀ HY VỌNG 
(Зови надежду сновиденьем)

Em cứ gọi giấc mơ là hy vọng 
Điều dối gian là chân lý cho rồi 
Em chớ tin lời cam đoan, ca tụng 
Nhưng hãy tin, hãy tin ở tình tôi. 

Tình như thế không tin làm sao nổi 
Ánh mắt tôi không giấu một điều gì 
Gian dối với em cũng là tội lỗi
Em xứng thiên thần với điều ấy quá đi. 
1831


Зови надежду сновиденьем

Зови надежду сновиденьем,
Неправду - истиной зови,
Не верь хвалам и увереньям,
Но верь, о, верь моей любви!

Такой любви нельзя не верить,
Мой взор не скроет ничего;
С тобою грех мне лицемерить,
Ты слишком ангел для того.


13.GỬI BẠN V.SH(1) 
(К другу В. Ш.)

Chia tay nhau “ta hẹn đến ngày vui!” 
Bạn xiết tay tôi, nói lời khi giã biệt 
Rồi rất lâu tôi đợi những ngày này 
Nhưng chờ đợi của tôi thành vô ích. 

Bạn thân yêu! Những ngày vui chẳng thấy 
Trong tương lai hạnh phúc chẳng có gì 
Tôi vẫn nhớ những ngày vui vẻ ấy 
Nhưng cái nhớ về là cái đã mất đi. 

Cả quá khứ với ta thành vô nghĩa 
Như ngọn hải đăng chỉ sáng trong đêm 
Khi trên biển phong ba và bão tố 
Bờ thuỷ chung – hướng vẫy gọi ngọn đèn. 

Khi trên thuyền chỉ một người cô quạnh 
Lái con thuyền đi cảm thấy dập dờn 
Và nhìn thấy – bến bờ không xa lắm 
Nhưng dù sao cái chết vẫn gần hơn. 

Không! Bị quyến rũ bằng ước mơ vô ích 
Con tim đau nhận ra sự anh minh 
Khi khó nhọc hạ mình giấc mơ đẹp 
Thì con tim chợt tỉnh giấc mơ tiên. 
1831 
____________ 
(1)Vladimir Alexandrovich Sheshin – bạn, bạn học của Lermontov, người quen của A. Puskin, người bà con của D. Davydov và A. Fet, đều là những nhà thơ lớn.


К другу В. Ш. (До лучших дней!..)

"До лучших дней!" - перед прощаньем,
Пожав мне руку, ты сказал;
И долго эти дни я ждал,
Но был обманут ожиданьем!..

Мой милый! не придут они,
В грядущем счастия так мало!..
Я помню радостные дни,
Но все, что помню, то пропало.

Былое бесполезно нам.
Таков маяк, порой ночною
Над бурной бездною морскою
Манящий к верным берегам,

Когда на лодке, одинокий,
Несется трепетный пловец
И видит - берег недалекий
И ближе видит свой конец.

Нет! обольстить мечтой напрасной
Больное сердце мудрено;
Едва нисходит сон прекрасный,
Уж просыпается оно!


14.HÌNH BÓNG 
(Силуэт)

Hình bóng của em có ở trong tôi
Tôi yêu nó như sắc màu buồn thảm
Hình bóng lơ lửng treo giữa ngực này
Như con tim, hình bóng nầy u ám.

Không ánh lửa, không đời trong đôi mắt
Nhưng với tôi gần gũi đến muôn đời
Bóng của em, nhưng mà tôi thân thiết
Như bóng hình, như bóng của niềm vui.
1831


Силуэт

Есть у меня твой силуэт,
Мне мил его печальный цвет;
Висит он на груди моей,
И мрачен он, как сердце в ней.

В глазах нет жизни и огня,
Зато он вечно близ меня;
Он тень твоя, но я люблю,
Как тень блаженства, тень твою.



15.NÀNG XINH ĐẸP 
(Она была прекрасна, как мечта)

Nàng xinh đẹp tựa hồ như giấc mộng 
Của bé con dưới ánh sáng phương Nam 
Ai cắt nghĩa rằng đẹp nghĩa là nàng 
Với ngực cao hay thân hình duyên dáng. 

Hay đôi mắt mở to? – nhưng tôi tin 
Tất cả đấy không gọi là sắc đẹp 
Miệng không nói lời làm sao yêu được 
Chẳng mùi hoa – không ánh lửa mắt nhìn!

Nhưng trời ơi, tôi xin được thề nguyền 
Nàng rất đẹp!.. tôi cháy lên, run rẩy 
Khi mái tóc xõa trên vầng trán ấy 
Tơ nhung vàng tôi khẽ chạm tay lên. 

Và tôi sẵn sàng quì xuống chân nàng 
Trao thiên đàng, cuộc đời, trao hết tất 
Chỉ để được nhận về tôi ánh mắt
Là thuốc độc – là khoái lạc hân hoan! 
1932


Она была прекрасна, как мечта

Она была прекрасна, как мечта
Ребенка под светилом южных стран.
Кто объяснит, что значит красота:
Грудь полная, иль стройный гибкий стан,

Или большие очи? Но порой
Всё это не зовем мы красотой:
Уста без слов — любить никто не мог,
Взор без огня — без запаха цветок!

О небо, я клянусь, она была
Прекрасна!.. Я горел, я трепетал,
Когда кудрей, сбегающих с чела,
Шелк золотой рукой своей встречал.

Я был готов упасть к ногам ее,
Отдать ей волю, жизнь, и рай, и всё,
Чтоб получить один, один лишь взгляд
Из тех, которых всё блаженство — яд!


16.CÁNH BUỒM 
(Парус)

Một cánh buồm cô đơn đang dần trắng 
Trong màn sương của nước biển ngời xanh 
Buồm đi tìm chi ở nơi xa vắng? 
Và tại vì sao từ giã quê mình?… 

Những ngọn sóng chơi đùa – cơn gió thét 
Và cột buồm đang cót két, uốn cong… 
Than ôi – buồm chẳng đi tìm hạnh phúc 
Và cũng không chạy trốn nỗi vui mừng! 

Phía dưới buồm, nước màu xanh sáng tỏ 
Phía trên buồm ánh nắng có màu vàng… 
Còn buồm nổi loạn, cầu xin bão tố 
Tựa hồ trong bão tố có bình yên!
1832


Парус

Белеет парус одинокой
В тумане моря голубом!..
Что ищет он в стране далекой?
Что кинул он в краю родном?..

Играют волны — ветер свищет,
И мачта гнется и скрыпит...
Увы! он счастия не ищет,
И не от счастия бежит!

Под ним струя светлей лазури,
Над ним луч солнца золотой...
А он, мятежный, просит бури,
Как будто в бурях есть покой!



17.NẾU HAI TA
(Had we never loved so kindly)

Nếu hai ta không từng là trẻ nhỏ
Nếu không yêu nhau mù quáng cuồng điên
Không từng chia ly, không từng gặp gỡ
Thì ta đã không biết đến đau buồn.
1832


Had we never loved so kindly

Если б мы не дети были,
Если б слепо не любили,
Не встречались, не прощались,
Мы с страданьем бы не знались.

_______________
*Bài thơ này thực chất là bản dịch một khổ thơ làm đề từ của tác phẩm Nàng dâu của Abydos của Byron. Khổ thơ làm đề từ này lấy từ bài thơ Ae fond kiss (Một nụ hôn dịu dàng) của Robert Burns, nhưng mà Lermontov nhầm chữ kindly (thân ái, chân tình) của tiếng Anh với tiếng Đức nên đã dịch thành trẻ nhỏ. Khổ thơ này như sau:

Had we never loved so kindly,
Had we never loved so blindly,
Never met or never parted,
We had ne'er been broken-hearted.

(Nếu ta đừng yêu bằng tấm chân tình
Nếu ta đừng yêu mù quáng, cuồng điên
Nếu đừng chia ly, nếu đừng gặp gỡ
Thì tim ta chẳng bao giờ tan vỡ).


Bài thơ Ae fond kiss (Một nụ hôn dịu dàng) đầy đủ cũng đã có bản dịch ra tiếng Việt.



18.HÃY BỎ LẠI 
K *** (Оставь напрасные заботы...)

Hãy bỏ lại những lo âu vô ích
Đừng khơi lên quá khứ để làm gì
Em chẳng tìm ra trong đó điều chi
Để mà yêu tôi càng thêm mãnh liệt.

Em yêu tôi – tôi tin – và thỏa mãn
Còn tôi là ai – điều đó không cần
Thật đau đớn nếu thổ lộ cùng em
Rằng đời tôi tối tăm và trống rỗng.

Không nỡ giết niềm hạnh phúc thánh thiện
Của tâm hồn em và chẳng nói rằng
Tôi không xứng với số phận của mình
Rằng với tôi – chẳng có gì quí mến.

Rằng tất cả những gì xưa trân trọng
Nay trở thành thuốc độc giết con tim
Con tim này với đau khổ thân thương
Như của cải, như người anh, người bạn.

Em thốt ra lời thân thương trìu mến
Ban ơn và đòi hỏi cuộc đời tôi
Nhưng chớ đòi gì quá khứ em ơi
Nỗi đau của mình tôi không đem bán.
1832


К *** (Оставь напрасные заботы...)

Оставь напрасные заботы,
Не обнажай минувших дней;
В них не откроешь ничего ты,
За что б меня любить сильней!

Ты любишь - верю - и довольно;
Кого - ты ведать не должна,
Тебе открыть мне было б больно,
Как жизнь моя пуста, черна.

Не погублю святое счастье
Такой души и не скажу,
Что недостоин я участья,
Что сам ничем не дорожу;

Что всё, чем сердце дорожило,
Теперь для сердца стало яд,
Что для него страданье мило,
Как спутник, собственность иль брат,

Промолвив ласковое слово,
В награду требуй жизнь мою;
Но, друг мой, не проси былого,
Я мук своих не продаю.


19.TA GẮN KẾT BẰNG SỐ PHẬN NGẪU NHIÊN
К ... (Мы случайно сведены судьбою)

Ta gắn kết bằng số phận ngẫu nhiên
Ta tìm thấy mình ở trong người khác
Để tâm hồn hòa nhập với tâm hồn
Dù bước đường đời kẻ sau người trước.

Như dòng nước mùa xuân đang soi bóng
Vòm trời xa xôi thăm thẳm màu xanh
Để vòm trời tỏa sáng trên sóng lặng
Và rung rinh với ngọn sóng dập dềnh.

Xin em hãy là trời cao, là bạn
Của những phong ba bão táp đời anh
Mặc giữa hai ta sấm chớp đì đùng
Anh sinh ra để sống cùng với chúng.

Anh sinh ra để loài người chứng kiến
Phút khải hoàn hay cái chết của anh
Nhưng với em – với tia sáng soi đường
Là lời khen hoặc tiếng cười kiêu hãnh!

Tâm hồn của họ không sao đạt đến
Không thể nào yêu mến nổi nhà thơ
Và không thể nào hiểu ra sầu muộn
Những niềm hân hoan không thể sẻ chia.
1832


К ... (Мы случайно сведены судьбою

Мы случайно сведены судьбою,
Мы себя нашли один в другом,
И душа сдружилася с душою;
Хоть пути не кончить им вдвоём!

Так поток весенний отражает
Свод небес далекий голубой
И в волне спокойной он сияет
И трепещет с бурною волной.

Будь, о будь моими небесами,
Будь товарищ грозных бурь моих;
Пусть тогда гремят они меж нами,
Я рожден, чтобы не жить без них.

Я рожден, чтоб целый мир был зритель
Торжества иль гибели моей,
Но с тобой, мой луч путеводитель.
Что хвала иль гордый смех людей!

Души их певца не постигали,
Не могли души его любить,
Не могли понять его печали,
Не могли восторгов разделить.


20.NÀNG HÁT LÊN
(Она поет — и звуки тают)

Nàng hát lên – và âm thanh tan chảy
Như nụ hôn tan chảy ở trên môi
Nàng nhìn lên – lấp lánh những tầng trời
Trong đôi mắt của nàng thần thánh ấy.

Nàng bước đi – trong cử động của nàng
Hay lời thốt ra – trong từng đường nét
Đầy ắp tình cảm và đầy cảm xúc
Và đầy ắp sự kỳ diệu giản đơn.
1837


Она поет — и звуки тают

Она поет — и звуки тают,
Как поцелуи на устах,
Глядит — и небеса играют
В ее божественных глазах;

Идет ли — все ее движенья,
Иль молвит слово — все черты
Так полны чувства, выраженья,
Так полны дивной простоты.


21.TA CHIA TAY, NHƯNG MÀ BỨC CHÂN DUNG

(Расстались мы, но твой портрет)

Ta chia tay, nhưng mà bức chân dung
Hình của em trong lòng anh vẫn giữ
Như ảo ảnh của năm tháng huy hoàng
Vẫn làm cho cõi lòng anh hoan hỉ.

Giờ thả mình theo đam mê mới mẻ
Vẫn không thể quên được bóng hình em
Bởi ngôi đền hoang vắng – vẫn ngôi đền
Và thần tượng vẫn thiêng – dù đã bỏ.
1837


Расстались мы, но твой портрет

Расстались мы, но твой портрет
Я на груди своей храню:
Как бледный призрак лучших лет,
Он душу радует мою.

И, новым преданный страстям,
Я разлюбить его не мог:
Так храм оставленный - всё храм,
Кумир поверженный - всё бог!



22.NHÌN VÀO TƯƠNG LAI
(Гляжу на будущность с боязнью)

Nhìn về quá khứ với một nỗi buồn
Nhìn vào tương lai với niềm sợ hãi
Giống tội phạm trước khi bị hành hình
Tôi đi tìm khắp nơi hồn gần gũi
Liệu sứ giả giải thoát rồi có tới
Mở cho tôi ấn định của cuộc đời
Mục đích của hy vọng và đam mê
Cho biết điều gì Chúa đà định sẵn
Sao Ngài từ chối một cách cay đắng
Những ước mong thời tuổi trẻ của tôi.

Tôi đã trả cho đất đai nợ đời
Của tình yêu, hy vọng, thiện và ác
Và bắt đầu sẵn sàng cho đời khác
Chờ trong im lặng: sẽ đến một thời
Tôi bỏ lại người anh em trên đời
Còn tâm hồn tôi vô cùng mệt mỏi
Vì lạnh lẽo và bóng đêm vây lấy
Và đánh mất sinh lực như trái non
Rồi héo tàn trong số kiếp bão giông
Dưới oi bức của mặt trời tồn tại.
1838


Гляжу на будущность с боязнью

Гляжу на будущность с боязнью,
Гляжу на прошлое с тоской
И, как преступник перед казнью,
Ищу кругом души родной;
Придет ли вестник избавленья
Открыть мне жизни назначенье,
Цель упований и страстей,
Поведать — что мне бог готовил,
Зачем так горько прекословил
Надеждам юности моей.

Земле я отдал дань земную
Любви, надежд, добра и зла;
Начать готов я жизнь другую,
Молчу и жду: пора пришла;
Я в мире не оставлю брата,
И тьмой и холодом объята
Душа усталая моя;
Как ранний плод, лишенный сока,
Она увяла в бурях рока
Под знойным солнцем бытия.



23.NGHE GIỌNG NÓI CỦA EM
(Слышу ли голос твой)

Nghe giọng nói của em
Trìu mến và ngân vang
Con tim này nhảy cẫng
Như chim ở trong lồng.

Bắt gặp ánh mắt em
Sâu thẳm – màu thiên thanh
Hồn từ trong lồng ngực
Năn nỉ gặp mắt nhìn.

Và vui vẻ hân hoan
Và như muốn khóc lên
Và giá như mà được
Ôm choàng lấy cổ em.
1938



Слышу ли голос твой

Слышу ли голос твой
Звонкий и ласковый,
Как птичка в клетке,
Сердце запрыгает;

Встречу ль глаза твои
Лазурно-глубокие,
Душа им навстречу
Из груди просится,

И как-то весело,
И хочется плакать,
И так на шею бы
Тебе я кинулся.


24.DEMON 
(Trích Phần I (15) 

Rơi trên gia đình yên ấm lão Gudan 
Sự trừng phạt của trời như tiếng sét 
Tamara ngã xuống trên giường mình 
Nức nở khóc – nàng Tamara tội nghiệp. 

Dòng nước mắt tuôn theo dòng nước mắt 
Ngực phập phồng, nàng khó thở lắm thay 
Một giọng nói diệu huyền, nghe đâu đây: 
“Chớ khóc, con! Khóc làm chi vô ích! 

Nước mắt con trên xác không biết nói 
Thành giọt sương sống động chẳng rơi lên 
Chỉ làm cho mờ mịt ánh mắt nhìn 
Và đôi má nữ trinh đem đốt cháy. 

Người đã xa, không hề hay biết vậy 
Không hiểu ra đau đớn của con đâu 
ánh sáng trời, giờ âu yếm biết bao 
Nhìn đôi mắt của người không xác ấy… 

Người đã nghe những khúc hát thiên đàng 
Rằng giấc mơ nhỏ nhen nơi trần thế 
Và thổn thức, và nước mắt thiếu nữ 
Chỉ dành cho khách ở phía trời chăng? 

Không số phận của người thịt mắt trần 
Hãy tin ta, thiên thần trên mặt đất 
Không đáng giá, dù chỉ là khoảnh khắc 
Với nỗi buồn, nỗi đau đớn của con! 

Con hãy nhìn lên, vào giữa không trung 
Không phương hướng và mục đích không có 
Đang bơi rất nhẹ nhàng ở trong sương 
Dàn đồng ca của những vì tinh tú. 

Giữa những cánh đồng rộng lớn mênh mông 
Giữa trời xanh chúng đi không dấu vết 
Những đám mây không thể nào bắt được 
Như những bông chúng quây lại thành đàn. 

Giờ gặp gỡ, phút chia ly 
Chúng chẳng cần mừng vui hay buồn giận 
Vào tương lai không mong ước điều gì 
Và quá khứ chẳng cần chi thương cảm. 

Trong cái ngày mà con bất hạnh 
Thì những vì sao con hãy nhớ về 
Với trần gian như những đám mây kia 
Không số phận và hững hờ như chúng”. 
………………………………….. 
………………………………….
1829 – 1839



Демон - Часть 1 (XV)

На беззаботную семью
Как гром слетела божья кара!
Упала на постель свою,
Рыдает бедная Тамара;

Слеза катится за слезой,
Грудь высоко и трудно дышит;
И вот она как будто слышит
Волшебный голос над собой:
«Не плачь, дитя! не плачь напрасно!

Твоя слеза на труп безгласный
Живой росой не упадет:
Она лишь взор туманит ясный,
Ланиты девственные жжет!

Он далеко, он не узнает,
Не оценит тоски твоей;
Небесный свет теперь ласкает
Бесплотный взор его очей;

Он слышит райские напевы...
Что жизни мелочные сны,
И стон и слезы бедной девы
Для гостя райской стороны?

Нет, жребий смертного творенья,
Поверь мне, ангел мой земной,
Не стоит одного мгновенья
Твоей печали дорогой!

На воздушном океане,
Без руля и без ветрил,
Тихо плавают в тумане
Хоры стройные светил;

Средь полей необозримых
В небе ходят без следа
Облаков неуловимых
Волокнистые стада.

Час разлуки, час свиданья —
Им ни радость, ни печаль;
Им в грядущем нет желанья
И прошедшего не жаль.

В день томительный несчастья
Ты об них лишь вспомяни;
Будь к земному без участья
И беспечна, как они!


25.GỬI A. O. SMIRNOVA 
(А.О.Смирновой)

Muốn nói với em nhiều - khi chẳng có em
Còn khi có em lại muốn nghe em nói
Nhưng em lặng im, nghiêm khắc ánh mắt nhìn
Làm cho anh cũng lặng im bối rối.

Biết sao giờ? Không biết ăn biết nói
Giành ý nghĩ em bằng cách nào đây..
Tất cả chuyện này quả thật khôi hài
Nếu tất cả đã không buồn đến vậy…
1840


А.О.Смирновой

Без вас хочу сказать вам много,
При вас я слушать вас хочу;
Но молча вы глядите строго,
И я в смущении молчу.

Что ж делать?.. Речью неискусной
Занять ваш ум мне не дано...
Всё это было бы смешно,
Когда бы не было так грустно...


26.CÔ LÁNG GIỀNG 
(Соседка)

Ngày tự do xem chừng không thể đợi
Mà ngày trong tù có vẻ bằng năm
Khung cửa sổ trên đất cao vòi vọi
Bên cửa ra vào có lính đứng canh!

Có lẽ tôi đã chết ở trong lồng
Nếu không có cô láng giềng yêu mến!..
Hôm nay thức giấc trong buổi bình minh
Khẽ gật đầu – với nàng tôi chào đón.

Trong cách trở, cảnh tù đày kết gắn
Tôi với nàng bằng một số phận chung
Và đã nảy sinh một điều mong muốn
Dù song sắt cách trở đến hai lần.

Một buổi sáng tôi ngồi bên cửa sổ
Cho đôi mắt được thỏa sức ngắm nhìn…
Bỗng ô cửa đối diện tôi: tiếng gõ!
Và bất ngờ bức màn được vén lên.

Một cô nàng láu lỉnh nhìn sang tôi
Mái đầu nàng lên bàn tay ngả xuống
Có vẻ như cơn gió từ bờ vai
Thổi nhẹ làm chiếc khăn rằn rơi xuống.

Nhưng tái nhợt bộ ngực xuân tươi trẻ
Nàng ngồi lâu, dường như đang thở dài
Đang giấu vẻ ngang tàng trong ý nghĩ
Khao khát tự do, cũng giống như tôi.

Em chớ buồn, cô gái láng giềng ơi
Cửa sẽ mở - chỉ cần em mong muốn
Và hai chúng ta như cánh chim trời
Sẽ bay ra giữa cánh đồng rộng lớn.

Em hãy mời bọn lính canh đánh chén
Và đánh cắp những chìa khóa cho anh
Còn phần anh, sẽ cố gắng tự mình
Dẹp những đứa canh phòng bên cửa lớn.

Em hãy chọn đêm nào trời tối nhé
Chọn thứ rượu say mang đến cho cha
Và để cho anh có thể nhận ra
Em hãy treo khăn rằn lên song cửa.
1840


Соседка

Не дождаться мне, видно, свободы, 
А тюремные дни будто годы;
И окно высоко над землей!
И у двери стоит часовой!

Умереть бы уж мне в этой клетке, 
Кабы не было милой соседки!.. 
Мы проснулись сегодня с зарей, 
Я кивнул ей слегка головой.

Разлучив, нас сдружила неволя, 
Познакомила общая доля, 
Породнило желанье одно
Да с двойною решеткой окно;

У окна лишь поутру я сяду, 
Волю дам ненасытному взгляду... 
Вот напротив окошечко: стук! 
Занавеска подымется вдруг.

На меня посмотрела плутовка! 
Опустилась на ручку головка, 
А с плеча, будто сдул ветерок, 
Полосатый скатился платок,

Но бледна ее грудь молодая, 
И сидит она, долго вздыхая, 
Видно, буйную думу тая,
Все тоскует по воле, как я.

Не грусти, дорогая соседка... 
Захоти лишь - отворится клетка, 
И, как божии птички, вдвоем 
Мы в широкое поле порхнем.

У отца ты ключи мне украдешь, 
Сторожей за пирушку усадишь, 
А уж с тем, что поставлен к дверям, 
Постараюсь я справиться сам.

Избери только ночь потемнее, 
Да отцу дай вина похмельнее, 
Да повесь, чтобы ведать я мог, 
На окно полосатый платок.



27.TẠI VÌ SAO 
(Отчего)

Tôi buồn, bởi vì yêu em đó 
Và biết rằng tiếng xấu chẳng hề thương 
Tuổi trẻ của em dậy sức thanh xuân. 
Mỗi giây ngọt ngào, mỗi ngày sáng tỏ 
Em phải trả bằng nước mắt, nỗi buồn. 
Tôi buồn… bởi vì em vui vẻ. 
1840


Отчего

Мне грустно, потому что я тебя люблю,
И знаю: молодость цветущую твою
Не пощадит молвы коварное гоненье.
За каждый светлый день иль сладкое мгновенье
Слезами и тоской заплатишь ты судьбе.
Мне грустно... потому что весело тебе.





28.SAU MẠNG CHE LẠNH LÙNG VÀ BÍ ẨN
(Из-под таинственной, холодной полумаски)

Sau mạng che lạnh lùng và bí ẩn
Giọng của em vui như một giấc mơ
Đôi mắt quyến rũ tỏa sáng cho ta
Và mỉm cười – đôi bờ môi láu lỉnh.

Qua làn khói ta vô tình cảm nhận
Cổ màu trắng và đôi má thanh tân
Kẻ hạnh phúc! Nhìn mái tóc tự nhiên
Đã không còn như ngày xưa gợn sóng!

Khi đó ta tạo ra trong tưởng tượng
Người đẹp của ta theo dấu nhẹ nhàng
Và từ đó hình ảnh của hình dung
Mang trong lòng, ta yêu, ta âu yếm.

Những lời sống động này – ta cứ ngỡ
Rằng ngày xưa đâu đó đã từng nghe
Ai đó thì thầm: sau lần gặp kia
Ta lại gặp như những người bạn cũ.
1841


Из-под таинственной, холодной полумаски

Из-под таинственной, холодной полумаски
Звучал мне голос твой отрадный, как мечта.
Светили мне твои пленительные глазки
И улыбалися лукавые уста.

Сквозь дымку легкую заметил я невольно
И девственных ланит, и шеи белизну.
Счастливец! видел я и локон своевольный,
Родных кудрей покинувший волну!..

И создал я тогда в моем воображенье
По легким признакам красавицу мою;
И с той поры бесплотное виденье
Ношу в душе моей, ласкаю и люблю.

И все мне кажется: живые эти речи
В года минувшие слыхал когда-то я;
И кто-то шепчет мне, что после этой встречи
Мы вновь увидимся, как старые друзья.


29.TÔI KHÔNG YÊU EM NHIỆT THÀNH NHƯ THẾ
(Нет, не тебя так пылко я люблю)

Tôi không yêu em nhiệt thành như thế
Sắc đẹp của em chỉ để cho người
Tôi yêu ở em nỗi đau quá khứ
Và tuổi thanh xuân đã chết của tôi.

Dù lúc này tôi vẫn nhìn sang em
Nhìn chăm chú thật lâu vào đôi mắt
Và tôi đang chuyện trò trong bí mật
Câu chuyện tâm tình nhưng chẳng với em.

Mà với người bạn gái của ngày xanh
Trong đường nét của em tìm nét khác
Trong mắt này – tìm mắt huyền đã khép
Trong môi này – bờ môi đã lặng câm.
1841


Нет, не тебя так пылко я люблю

Нет, не тебя так пылко я люблю,
Не для меня красы твоей блистанье:
Люблю в тебе я прошлое страданье
И молодость погибшую мою.

Когда порой я на тебя смотрю,
В твои глаза вникая долгим взором:
Таинственным я занят разговором,
Но не с тобой я сердцем говорю.

Я говорю с подругой юных дней,
В твоих чертах ищу черты другие,
В устах живых уста давно немые,
В глазах огонь угаснувших очей. 



30.TÔI MỘT MÌNH BƯỚC RA CON ĐƯỜNG LỚN
(Выхожу один я на дорогу)

1 
Tôi một mình bước ra con đường lớn 
Qua màn sương con đường đá ánh lên 
Đồng hoang nghe lời Chúa. Đêm tĩnh lặng
Và những ngôi sao to nhỏ tự tình. 

2 
Giữa bầu trời diệu kỳ và trang trọng 
Đất ngủ yên trong ánh sáng màu xanh 
Có điều chi làm cho tôi đau đớn? 
Có điều chi tôi mong đợi cho mình? 

3 
Không còn đợi điều chi từ cuộc sống 
Tháng ngày qua không một chút tiếc thương 
Tôi đi tìm tự do và tĩnh lặng 
Tôi chỉ mong giá được ngủ và quên! 

4 
Nhưng không bằng giấc mơ trong mồ lạnh 
Mà chỉ mong ngủ như vậy muôn đời: 
Để trong ngực mê man nguồn nhựa sống 
Để lặng yên con sóng giữa lòng tôi. 

5 
Để suốt đêm, suốt ngày tôi nghe được 
Về tình yêu một giọng hát ngọt ngào 
Để trên đầu tôi muôn đời xanh mướt 
Cây sồi đen ngả bóng xuống lao xao. 
1841


Выхожу один я на дорогу

Выхожу один я на дорогу;
Сквозь туман кремнистый путь блестит;
Ночь тиха. Пустыня внемлет богу,
И звезда с звездою говорит.

В небесах торжественно и чудно!
Спит земля в сияньи голубом...
Что же мне так больно и так трудно?
Жду ль чего? жалею ли о чём?

Уж не жду от жизни ничего я,
И не жаль мне прошлого ничуть;
Я ищу свободы и покоя!
Я б хотел забыться и заснуть!

Но не тем холодным сном могилы...
Я б желал навеки так заснуть,
Чтоб в груди дремали жизни силы,
Чтоб дыша вздымалась тихо грудь;

Чтоб всю ночь, весь день мой слух лелея,
Про любовь мне сладкий голос пел,
Надо мной чтоб вечно зеленея
Тёмный дуб склонялся и шумел.


31.TÔI NGÀY XƯA

(Поцелуями прежде считал)

Tôi này xưa đã từng coi cuộc đời
Hạnh phúc là những nụ hôn say đắm
Nhưng giờ đây hạnh phúc tôi đã chán
Nhưng giờ đây tôi không còn yêu ai.

Và một thuở đã từng coi cuộc đời
Sôi nổi của mình là dòng nước mắt
Nhưng khi đó tôi yêu và khao khát
Còn bây giờ tôi đã chẳng yêu ai!

Và sổ ngày tháng tôi để mất rồi
Và đôi cánh lãng quên tôi tìm bắt
Giá được cho chúng mang tim đi mất!
Giá được đem cho muôn thuở của tôi!


Поцелуями прежде считал

Поцелуями прежде считал
Я счастливую жизнь свою,
Но теперь я от счастья устал,
Но теперь никого не люблю.

И слезами когда-то считал
Я мятежную жизнь мою,
Но тогда я любил и желал —
А теперь никого не люблю!

И я счет своих лет потерял
И я крылья забвенья ловлю:
Как я сердце унесть бы им дал!
Как бы вечность им бросил мою!


32.MTSYRI*

Đã nếm một chút mật ong, này đây tôi phải chết**. 
Cựu Ước_Sách Samuen 1: 14, 43. 


Cách đây một thời gian chưa lâu lắm
Chỉ mấy năm, nơi tiếng nước rì rầm
Quấn quít lấy nhau như hai chị em
Dòng nước Kura và Aragva đổ xuống
Ở nơi đó có một tòa tu viện
Khách bộ hành nhìn thấy rõ từ xa
Những cây cột của cổng lớn chơ vơ
Và những tháp, và mái vòm tu viện
Nhưng bình hương ở nơi này tắt hẳn
Đã không còn tỏa làn khói mùi thơm
Không còn nghe câu kinh giờ muộn màng
Của tu sĩ vì chúng ta cầu nguyện.
Chỉ còn một ông già tóc bạc trắng
Vẫn đứng canh cảnh đổ nát hoang tàn
Bị loài người và cái chết lãng quên
Và lau bụi thời gian từ bia mộ
Những dòng chữ đã khắc trên mộ chí
Nói về vinh quang một thuở xa xôi
Và tâm trạng chán nản của một người
Một ông vua trong một năm nào đó
Trao dân mình cho nước Nga che chở. 
Và yên bình đến với Gruzia
Kể từ ngày đó đất nước nở hoa
Trong bóng những khu vườn không còn sợ
Hay còn lo vì tai ương địch họa
Dưới rừng gươm thân thiện của bạn bè. 
………………………………………………..
………………………………………...........

26 
Khi mà tôi sắp từ giã cõi trần
Xin hãy tin ngày này không xa nữa
Già hãy sai mang tôi ra khu vườn
Nơi có hai bụi keo hoa trắng xóa
Xung quanh cây đó mọc đầy hoa cỏ
Không khí trong lành, thoang thoảng mùi hương
Từng chiếc lá trong suốt ánh màu vàng
Đang đùa vui dưới mặt trời vui vẻ!
Xin hãy sai đặt tôi nằm nơi đó.
Để tôi được uống say lần cuối cùng
Ánh hào quang tỏa sáng của ngày xanh.
Để từ đó thấy rõ ràng Kavkaz
Có thể là từ đỉnh cao chót vót
Núi gửi tôi lời vĩnh biệt cuối cùng
Lời vĩnh biệt cùng với cơn gió mát
Gần gũi bên tôi trước phút lâm chung
Lại vang lên một âm thanh quen thuộc!
Để tôi nghĩ có người anh thân thiết
Hay người bạn đang cúi xuống trên mình
Bằng bàn tay chăm chú và quan tâm
Lau giọt mồ hôi lạnh từ gương mặt
Và chỉ khe khẽ cất lên tiếng hát
Một bài ca về đất nước quê hương
Để với lời ca tôi sẽ ngủ yên
Và sẽ không trách cứ gì ai hết!..”
_____________
(1) Mtsyri (tiếng Gruzia), The Novice (tiếng Anh) – nghĩa là người mới tu. Trường ca này có 26 phần, chúng tôi chỉ dịch phần đầu tiên và phần cuối cùng. Tiếng Việt đã có bản dịch đầy đủ của Thúy Toàn. Câu đề từ của trường ca này Thúy Toàn đã dịch sai nội dung cũng như nguồn dẫn. Thúy Toàn dịch: “Chửa ăn bao mật ngọt. Mà nay đã chết rồi” và dẫn nguồn là: “Thánh Kinh quyển 1”, thực ra đây là quyển Samuen 1 của Kinh Thánh Cựu Ước. Tuy nhiên cũng không trách Thúy Toàn, phải là người rất hiểu biết về Kinh Thánh thì mới dịch đúng được câu đề từ này và dẫn đúng nguồn được (xem tiếp chú thích 2).    

(2) Đã nếm một chút mật ong, này đây tôi phải chết (Вкушая, вкусих мало меда, и се аз умираю). Câu này Lermontov lấy từ Kinh Thánh bằng tiếng Nga cổ “Вкушая, вкусих мало меду, омочив конец жезла, иже в руце моей, и се аз умираю”, bản tiếng Nga hiện đại là “...я отведал концом палки, которая в руке моей, немного меду; и вот я должен умереть”. Bản tiếng Việt tương đương: “Tôi có dùng đầu gậy tôi cầm nơi tay mà nếm chút mật ong, nay tôi đây phải chết” (Cựu Ước - Sách Samuen 1, chương 14, mục 43).

(3) Kura – là con sông lớn nhất ở vùng Kavkaz chảy qua lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kỳ, Gruzia và Azerbaijan đổ ra biển Caspi. Aragva – là nhánh tả của sông Kura. 



Мцыри
Вкушая, вкусих мало меда, и се аз умираю.
1-я Книга Царств

1
Немного лет тому назад,
Там, где, сливаяся, шумят,
Обнявшись, будто две сестры,
Струи Арагвы и Куры,
Был монастырь. Из-за горы
И нынче видит пешеход
Столбы обрушенных ворот,
И башни, и церковный свод;
Но не курится уж под ним
Кадильниц благовонный дым,
Не слышно пенье в поздний час
Молящих иноков за нас.
Теперь один старик седой,
Развалин страж полуживой,
Людьми и смертию забыт,
Сметает пыль с могильных плит,
Которых надпись говорит
О славе прошлой — и о том,
Как, удручен своим венцом,
Такой-то царь, в такой-то год,
Вручал России свой народ.
И божья благодать сошла
На Грузию! Она цвела
С тех пор в тени своих садов,
Не опасаяся врагов,
За гранью дружеских штыков.
..................
..................
26
Когда я стану умирать,
И, верь, тебе не долго ждать,
Ты перенесть меня вели
В наш сад, в то место, где цвели
Акаций белых два куста...
Трава меж ними так густа,
И свежий воздух так душист,
И так прозрачно-золотист
Играющий на солнце лист!
Там положить вели меня.
Сияньем голубого дня
Упьюся я в последний раз.
Оттуда виден и Кавказ!
Быть может, он с своих высот
Привет прощальный мне пришлет,
Пришлет с прохладным ветерком...
И близ меня перед концом
Родной опять раздастся звук!
И стану думать я, что друг
Иль брат, склонившись надо мной,
Отер внимательной рукой.
С лица кончины хладный пот
И что вполголоса поет
Он мне про милую страну...
И с этой мыслью я засну,
И никого не прокляну!..»



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét