Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Sáu, 10 tháng 2, 2017

Thơ Joseph Brodsky

65 bài thơ Song Ngữ

 https://brodskyvn.blogspot.com/

Joseph Brodsky (1940-1996) - nhà thơ Mỹ gốc Nga, giải Nobel Văn học năm 1987, sinh ngày 24-5-1940 tại Leningrad (Liên bang Nga). Cuộc đời của nhà thơ này từ nhỏ đã có những chi tiết thú vị. Thời thơ ấu Brodsky sống trong một căn hộ nhỏ của ngôi nhà mà trước cách mạng tháng Mười đã từng sống hai nhà thơ Nga sau đó cũng ra sống nước ngoài: Merezhkovsky và Zinaida Gippius. Học trường phổ thông mà ngày trước Afred Nobel đã từng học và năm 1987 được trao giải Nobel Văn học

Thuở nhỏ Brodsky mơ ước trở thành bác sĩ nhưng 15 tuổi đã phải nghỉ học vì mưu sinh. Sau đó, tự học tiếng Anh, tiếng Ba Lan, nghiên cứu truyền thuyết, tôn giáo và triết học; 16 tuổi bắt đầu làm thơ; 17 tuổi hoàn thành tập thơ nổi tiếng Vĩnh biệt, hãy quên, đừng trách cứ gì nhau... và được công nhận là một nhà thơ, một dịch giả tài năng . Năm 1963 J. Brodsky bị kết tộin bám xã hội" và gửi đi cải tạo 5 năm miền bắc Nga. Nhờ sự phản đối của các nhà văn trong và ngoài nước hai năm sau ông được trở về Leningrad. Năm 1972, ông lại bị trục xuất, phải sang Vienna, London và cuối cùng là Hoa Kỳ. Từ đây, Brodsky sáng tác bằng cả tiếng Nga và tiếng Anh. Năm 1977, ông nhập quốc tịch Mỹ và làm giáo sư văn học cho trường Cao đẳng Five College Mount Holyoke, bang Massachusetts. Năm 1978, Đại học Yale trao cho J. Brodsky bằng tiến sĩ văn học danh dự. Năm 1979, ông trở thành thành viên của Viện Hàn lâm Nghệ thuật - Văn chương Mỹ. Năm 1981, ông được Quỹ John D. và Catherine T. MacArthur trao tặng giải thưởng cho các tác phẩm thiên tài. Năm 1986, cuốn tiểu luận về nghệ thuật và chính trị Ít hơn một của ông được giải thưởng của Nhóm các nhà phê bình sách Quốc gia (Mỹ).
Brodsky sáng tạo nên một thế giới thơ ca độc đáo được thể hiện bằng những quan niệm của nghệ thuật hậu hiện đại. Các nhà phê bình coi ônglà người tổng kết thơ ca thế kỷ XX”. Joseph Brodsky mất Mỹ ngày 28-01-1996.

Tác phẩm:
-
Vĩnh biệt, hãy quên, đừng trách cứ gì nhau... (Прощай, позабудь и не обессудь, 1957), thơ.
-
Khúc bi ca lớn gửi Donne John (Большая элегия Джону Донну, 1963).
-
Thơ và trường ca (Стихотворения и поэмы, 1965), thơ.
-
Trạm dừng trong sa mạc (Остановка в пустыне, 1970), thơ.
-
Kết thúc thời tốt đẹp. Thơ những năm 1964-71 (Конец прекрасной эпохи. Стихотворения 1964-71, 1977), thơ.
-
Một phần của lời nói. Thơ những năm 1972-76 (Часть речи. Стихотворения 1972-76, 1980), thơ và bài viết.
-
Những khúc bi ca La Mã (Римские элегии, 1982), thơ.
-
Những bài tứ tuyệt mới gửi Augusta (Новые стансы к Августе, 1983), thơ.
- С
ẩm thạch (Мрамор, 1984), kịch.
- Í
t hơn một (Меньше одиницы, 1986), tiểu luận.
-
Lịch sử thế kỉ hai mươi (History of the twentieth century, 1986), thơ.
-
Urania (Урания, 1988), thơ.
-
Bút kí dương xỉ (Заметки папоротника, 1990).
-
Trên các nẻo Atlantida (На околицах Атлантиды, 1992).
-
Bờ sông của những kẻ vô phương cứu chữa (Набережная неисцелимых, 1992), thơ.
-
Hoa văn mờ trên giấy (Watermark, 1992), tiểu luận.
-
Nỗi đau và lí trí (Скорбь и разум, 1995), tiểu luận.





VĨNH BIỆT, HÃY QUÊN
(Прощай, позабудь, и не обессудь)

Vĩnh biệt
Hãy quên
Đ
ừng trách cứ gì nhau.
Còn những bức thư
Em hãy đốt
Như cầu.
Con đường của em
Sẽ trở thành can đảm
Con đường thẳng
Và sẽ giản đơn.
Rồi đây trong màn sương
Sẽ cháy lên cho em
Một vì sao ngời sáng
Và một niềm hy vọng
Của bàn tay sưởi ấm
Bên bếp lửa nhà em.
Rồi sẽ có bão tuyết, mưa giông
Và tiếng gào điên cuồng của lửa
Sẽ có những thành công rực rỡ
Phía trước đợi chờ em
Sẽ tuyệt vời và mạnh mẽ vô cùng
Một trận đánh
Sẽ vang lên trong lồng ngực của em.

Anh hạnh phúc và xin chúc mừng
Cho người, mà có thể
Sẽ đi cùng em
Trên một con đường.
1957



TÔI ĐÃ YÊU EM*
(Я вас любил. Любовь еще (возможно...)

Tôi đã yêu em. Tình yêu vẫn là (có lẽ
chỉ một cơn đau) khoan vào não của tôi.
Tất cả đã bay đi theo quỉ sứ hết rồi.
Tôi thử bắn vào mình nhưng thật khó
với vũ khí. Và sau đó: thái dương
run lên. Không vì run mà vì sự trầm ngâm
không giống của người trần! Rõ là quái quỉ!
Tôi đã yêu em trong vô vọng và rất mạnh mẽ
cầu cho em người khác – nhưng Chúa chẳng ban!
Bởi vì rằng, Ngài còn có biết bao nhiêu thứ
theo Parmenides** – không sáng tạo hai lần
cơn nóng trong máu, xương kêu lên răng rắc
để vôi răng trong miệng chảy ra vì khao khát
chạm vào “bức tượng” , tôi gạch xóa – môi hôn!
__________________
*Đây là bài sonnet thứ 6 trong tập thơ gồm 20 bài sonnet viết về Mary Stuart - Nữ Hoàng Scotland (Двадцать сонетов к Марии Стюарт). Brodsky dựa theo tên gọi một bài thơ nổi tiếng của A. Puskin (Tôi đã yêu em) mà ở Việt Nam cũng rất nổi tiếng qua bản dịch Tôi yêu em của Thúy Toàn. Brodsky dựa theo một vài chi tiết của Puskin nhưng hoàn toàn viết theo cách của mình. Có thể nói tình yêu trong bài thơ của Puskin là một tình yêu cao thượng cả ở tình cảm cũng như lời cầu chúc, còn tình yêu trong bài thơ của Brodsky là một tình yêu bất hạnh mà theo tác giả “chỉ là cơn đau khoan vào não” làm cho tác giả chỉ muốn tự tử. Còn ở lời cầu chúc thì tác giả cũng dựa theo triết học của Parmenides, cho rằng trên đời sẽ không còn một tình yêu y hệt như thế nữa ở một người đàn ông nào khác. Có rất nhiều ý kiến tranh luận và so sánh hai bài thơ này nhưng hầu hết đều coi đây là “Hai bài thơ lớn” của thi ca Nga, một của “Mặt trời thi ca Nga”, một của nhà thơ lớn cuối cùng của “thế kỷ bạc”, người đoạt giải Nobel văn học năm 1987. 

**Parmenides (thế kỷ V trước CN) – nhà triết học Hy Lạp cổ đại, người lập ra trường phái Aleatic. Trong tác phẩm thơ “Bàn về tự nhiên” ông giải thích rằng thực tại là đơn nhất, thay đổi không thể xảy ra, sự tồn tại là vĩnh viễn, đồng nhất, cần thiết và không thay đổi.





TÌNH YÊU
(Любовь)

Trong đêm nay anh thức giấc hai lần
đến bên cửa sổ, dãy đèn dưới phố
như những câu rời rạc trong giấc ngủ
chẳng đến đâu, như dấu chấm cả hàng
chẳng hề mang cho anh niềm an ủi.

Anh mơ thấy em mang thai, và cảnh
bao năm rồi sống ly biệt với em
anh cảm thấy điều lầm lỗi của mình
và vui mừng đưa tay sờ lên bụng
nhưng thực ra đang sờ soạng tìm quần

và công tắc. Anh đến bên cửa sổ
hiểu rằng anh đã bỏ em ở đó
trong bóng đêm, nơi em vẫn kiên gan
đợi chờ anh mà không hề buộc tội
khi anh về, sự ngắt quãng cố tình.

Bởi vì rằng ở đó, trong bóng đêm
rồi sau bị ngắt ra trong ánh sáng.
Chúng mình thành vợ chồng, ta là những
con quái vật hai lưng, còn đứa con
là sự thanh minh cho sự trần truồng. 

Rồi sau này, lúc nào đó, trong đêm
em lại đến – yếu gầy và mệt mỏi
anh nhìn đứa con trai hay con gái
còn chưa kịp đặt tên gọi – thì anh
không đi tìm công tác để bật đèn

không giơ tay và anh chẳng có quyền
bỏ mẹ con em trong vương quốc bóng tối
rất âm thầm, và trước hàng rào giậu
của tháng ngày, sự phụ thuộc khiến anh
không thể tiếp cận với em ở đấy.
1971 
___________________
*Đây là bài thơ về Mariana Pavlova Basmanova (sinh năm 1938) – nữ họa sĩ Nga, người tình một thuở của Joseph Brodsky, họ có với nhau một đứa con trai. 





BỨC THƯ GỬI A. D*
(Письмо к А. Д)

Dù em không nghe ra, không nghe lấy một lời anh
nhưng dù sao, dù sao, thật lạ lùng, cho em anh lại viết
nhưng thật lạ lùng là lại đi nhắc lại những lời giã biệt.
Xin chào em. Thật lạ lùng khi đang rơi vào sự lặng im.

Dù em chẳng nghe ra, ở nơi này lại đã mùa xuân
như con chim bằng gang vẫn từ những cành cây ấy
như những ngọn đèn kêu, nơi trong đêm mình em qua lại
ngày đang buông – ở nơi em đã yêu chỉ có một mình.

Anh lại đến cõi thiên đường, ở nơi bệnh viện em đã nằm
trên tầng sáu, trong tình yêu đáng thương một mình em gan dạ
ở cái nơi lại tụ tập trên cầu một đám đông những người áo đỏ
những chiếc tàu điện suốt cuộc đời em vội vàng đuổi theo em. 

Lạy Chúa tôi! Dù sao thì cũng không đuổi kịp được theo em
dù sao thì, dù sao thì cũng không bao giờ đi lên được
trên quê hương mình, nhưng được nhìn trong lần giã biệt
trên quê hương mình em bay trong con tàu của sự lặng im.

Chúc thượng lộ bình an, hãy trở về với bạc tiền và sự vinh quang
Chúc thượng lộ bình an, em giờ xa xôi, hỡi Chúa đầy quyền lực!
Em vội vàng chạy đi đâu, ngược xuôi trên trái đất này bát ngát
để nơi này chẳng có em! Tựa như em đã chết, hở người thương.

Ở xứ sở mới này nhựa đường nguyên chất ở dưới bàn chân
bàn tay và bộ ngực của em – em can đảm trở nên người khác
ở xứ sở mới này, nơi em đang hít thở khí trời và đang ôm ấp
em nói vào mi-crô, nhưng em không nghe một ai đó trên trần.

Trong phút giây vô vọng, anh vẫn giữ gìn vẻ mặt của em
và hờ hững với em – vì sự dịu dàng của em không còn nữa
vì sự cô đơn của em, vì sự mù quáng một chiều rất khác lạ
vì sự bối rối của em, vì tuổi thanh xuân đầy im lặng của em. 

Tất cả những gì em bỏ qua, em loại bỏ, chỉ đi ngang
tất cả những gì đã, đang và em sẽ còn xua đuổi nữa –
cả ban ngày, ban đêm, cả mùa đông, mùa xuân, mùa hạ
và trên những cánh đồng thu – tất cả vẫn còn ở lại với anh. 

Anh chấp nhận món quà không nghĩ suy, nhu nhược của em
rửa sạch lỗi lầm, để cuộc đời mở ra như cả nghìn vòm cửa
mà có thể là tín hiệu thân thiện – về quãng đời trong quá khứ
để em khỏi lầm đường trên quê hương vốn bình lặng của em. 

Tạm biệt em! Vĩnh biệt em, tạm biệt người yêu dấu của anh.
Tạm biệt em! Vĩnh biệt em! Ở đấy không phải em mà ai đó khác.
Em hãy bay bằng tàu bay lặng im – vào không gian khoảnh khắc
và hãy bơi bằng tàu thủy lãng quên – vào biển lớn lãng quên. 
1962
__________________

*Đây là bài thơ về Alya Druzina (Аля Друзина), một cô bạn thân thời trẻ của J. Brodsky. Alya sau đi lấy chồng là người Iceland (Ai-xơ-len).  



KHÔNG TÌNH YÊU, KHÔNG BUỒN BÃ, U HOÀI
(Ни тоски, ни любви, ни печали)

Không tình yêu, không buồn bã, u hoài
không lo lắng, không đớn đau trong ngực
có vẻ như cả cuộc đời trên vai
và chỉ còn một nửa giờ phía trước.

Hãy nhìn xem – có lẽ sẽ nhìn ra
tắc xi chạy ầm ầm trong hẻm vắng
cây cối phía sau bờ giậu nhà thờ
đang xào xạc trên bé con bị ốm 

từ một khoảng cách không hề xác định
người bảo vệ trẻ tuổi huýt sáo lên
và tiếng kêu vô nghĩa của dương cầm
đang trôi nổi bơi trên đầu của bạn. 

Nhưng ngay lập tức bạn không cảm thấy
giá mà có được những năm mái vòm
đá diabaz bây giờ trống không
đem đi chúc đời mình thành hai nửa

1962



THÌ ĐÃ SAO. TA TRỞ VỀ QUÊ HƯƠNG
(Воротишься на родину. Ну что ж)

Thì đã sao. Ta trở về quê hương.
Nhìn xung quanh, ta còn còn có ai cần
với ta bây giờ còn ai kết bạn?
Trở về đây, lo bữa tối cho mình

ra cửa hàng mua một chai rượu vang
nhìn cửa sổ và nghĩ suy một tý:
trong mọi thứ ta là người có lỗi
thì cũng không sao. Lạy Chúa lòng lành.

Không có ai đổ lỗi, thật tốt lành
thật tốt lành, không buộc ràng ai cả
cho đến ngày xuống mồ không ai phải
yêu thương ta, khi còn sống trên trần.

Rằng không bao giờ ở trong bóng đêm
có bàn tay ai tiễn đưa ta cả
thật tuyệt vời trên đời này đơn lẻ
từ nhà ga đi bộ về nhà mình.

Thật tuyệt vời trở về quê vội vàng
tìm bắt mình trong lời không giấu giếm
và bỗng hiểu ra tâm hồn rất chậm
về những thay đổi mới biết quan tâm. 



TÔI NHƯ UY-LÍT-XƠ
(Я как Улисс)

Mùa đông, tôi đang đi giữa đông này
về đâu đó trên quê hương thấy được
hãy xua tôi, buổi xấu trời, trên đất
dù đi lui, xua tôi giữa cuộc đời.

Moskva, ấm cúng buổi sớm mai
trên những phố có lều căng vải bạt
những người lạ vẫn tới lui như trước
trong những cửa hàng đèn chiếu sáng ngời. 

Màu vàng rộm của những đồng xu rơi
màu krypton trên mặt người qua lại
hãy đuổi tôi như Ga-ny-mít* mới
uống chén trần gian đưa xuống từ trời

tôi không hiểu, đến từ đâu, về đâu
tôi bước đi, để mất nhiều thứ quá
trong thời gian, trên con đường lặp lại
ôi Chúa ơi, thật nhảm nhí làm sao. 

Ôi Chúa ơi, con xin Chúa không nhiều
ôi Chúa ơi, con nghèo hay giàu có
nhưng mỗi ngày con thở bằng quá khứ
tự tin hơn, và thanh sạch, ngọt ngào. 

Mọi người ơi hãy thấp thoáng qua mau
tôi bước đi, ngỡ như đầy hạnh phúc
hãy xua tôi, như Uy-lít-xơ, về phía trước
nhưng hiểu rằng đang đi lại phía sau.

Hãy nắm bắt lấy kẻ gặp được nào
và nhắc lại cảm tình, dù gượng ép:
từ tình yêu này đến tình yêu khác
sống yêu đời, còn đau khổ ít thôi. 
1961
_________________
*Ga-ny-mít – tức Ganymede. Trong thần thoại Hy Lạp, Ganymede là hoàng tử của thành Tơ-roa. Homer miêu tả Ganymede là cậu thiếu niên đẹp nhất cõi trần tục bị thần Dớt bắt cóc lên đỉnh Olympia. Ganymede trở thành vị thần của tình yêu và ham muốn đồng tính, cậu còn là người giữ chiếc chén cho các vị thần trên đỉnh Olympia. 



TÔI KHÔNG XIN BẤT TỬ Ở TỬ THẦN
(Бессмертия у смерти не прошу)

Tôi không xin bất tử ở tử thần
Tôi đang yêu, tôi nghèo và tôi sợ
Nhưng mỗi ngày tôi thở bằng quá khứ
Ngọt ngào hơn, thanh sạch, tự tin hơn.

Trên bờ sông, tôi thoáng đãng vô cùng
Thấy lộng gió, lạnh lùng và muôn thuở
Như đám mây vút bay qua cửa sổ
Rất nhẹ nhàng, rất vỡ vụn và nhanh. 

Tôi không chết giữa mùa hè, mùa thu
Vải trải giường mùa đông không sột soạt
Hãy nhìn xem, tình yêu, như trong góc
Cháy giữa tôi và mạng nhện cuộc đời. 

Có cái gì, như con nhện bị nghiền
Chạy trong tôi rồi lạ lùng tàn lụi.
Nhưng hơi thở và đôi bàn tay vẫy
Lơ lửng treo giữa tôi với thời gian. 

Với thời gian – về số phận của mình
Tôi kêu gào bằng giọng rất buồn bã
Tôi đang nói về phận mình như thế
Nhưng câu trả lời là sự lặng im. 

Bay trong cửa sổ, giật mình trong lửa
Hãy bay vào cái ngòi nổ tham lam.
Sông hãy ngân vang! Và hãy gọi lên
Pê-téc-bua của tôi, cây chuông cứu hỏa.

Mặc cho thời gian về tôi lặng lẽ
Để cho cơn gió than thở nhẹ thôi
Và trên mộ người Do Thái của tôi
Cuộc sống trẻ sẽ kêu lên bền bỉ. 
1961 





ĐỪNG BƯỚC RA KHỎI PHÒNG, ĐỪNG LÀM ĐIỀU GÌ SAI
(Не выходи из комнаты, не совершай ошибку)

Đừng bước ra khỏi phòng, đừng làm điều gì sai
Mặt trời để làm gì, nếu bạn đang hút thuốc?
Sau cánh cửa đều vô nghĩa, nhất là lời hạnh phúc
Chỉ trong nhà vệ sinh – và bạn hãy trở về ngay. 

Bạn đừng ra khỏi phòng, đừng gọi động cơ
Vì không gian được làm từ hành lang bé nhỏ
kết thúc bằng bộ đếm. Nếu như người yêu dấu
bước vào, mở miệng, đừng cởi áo, mà xua đi.

Đừng bước ra khỏi phòng, cứ cho là bạn bị đau.
Còn gì thú vị hơn trên đời những bức tường và ghế?
Cần gì phải đi ra, nơi mà bạn vẫn quay về mỗi tối
bạn vẫn là như thế, nữa là – bạn khác với lúc đầu?

Đừng ra khỏi phòng. Hãy nắm bắt điệu nhảy Bossa nova
trong áo khoác trên thân, trong chân trần mang guốc.
Trong hành lang có mùi bắp cải và mùi dầu bôi trượt tuyết.
Bạn viết nhiều chữ cái, và hãy còn một chữ sẽ thừa ra.

Đừng bước ra khỏi phòng. Và hãy để cho chỉ phòng thôi
đoán bạn trông như thế nào. Nói chung là người ẩn tích
ergo sum*, như hình thức thấy trong con tim của chất.
Đừng ra khỏi phòng! Trà ngoài phố thì đã nước Pháp đâu.

Đừng làm một thằng ngốc! Mà hãy như bao người khác.
Đừng bước ra khỏi phòng! Hãy trao ý chí cho đồ nội thất
dán mặt vào giấy dán tường. Hãy phòng thủ, tự giấu mình
sau tủ sắt khỏi thần thánh, không gian, chủng tộc và vi-rút.
1970
____________________
*Bossa nova – là một thể loại nhạc Brazil, với nghĩa là “xu hướng mới”. 
**ergo sum – viết đầy đủ là Cogito ergo sum (tiếng Latinh: Tôi tư duy nghĩa là tôi tồn tại) là một phát biểu triết học được René Descartes sử dụng đã trở thành yếu tố nền tảng cho triết học Tây phương.



NGÀY 1 THÁNG GIÊNG NĂM 1965
(1 января 1965 года)

Địa chỉ của bạn các Đạo sĩ sẽ quên.
Không còn ngôi sao ở trên đầu mình.
Chỉ tiếng thét gào của cơn gió mạnh
mà bạn nghe ra như thuở hồng hoang.
Bạn ném chiếc bóng từ đôi vai mình
thổi tắt ngọn nến trước khi nằm xuống
bởi vì ngày có nhiều hơn là nến
mà cuốn lịch báo trước cho chúng mình.

Điều gì đây? Nỗi buồn? Có thể là nỗi buồn.
Một điệp khúc, điều thuộc lòng quen thuộc.
Nó sẽ vẫn còn lặp lại. Và cứ để vang lên.
Cứ để nó sẽ lặp lại và đi về phía trước.
Cứ để nó vang lên trong giờ phút lâm chung
như sự biết ơn với đôi môi và đôi mắt
biết ơn cái điều vẫn đang bắt buộc
mỗi chúng ta nhìn về chốn xa xăm. 

Và bạn lặng lẽ khi nhìn lên trần
bởi vì trong bít tất dài không còn gì cả
bạn hiểu sự keo kiệt là món đồ đem cầm
của những thứ đã vô cùng xưa cũ.
Rằng đã muộn màng để tin vào phép lạ.
Và bạn hướng mắt về phía trời xanh
và bỗng nhiên bạn cảm nhận ra rằng
tự mình bạn là món quà cởi mở.
1965 






KHÚC BI CA LỚN GỬI JOHN DONNE(1) 
(Большая элегия Джону Донну)

John Donne ngủ say, xung quanh đều ngủ cả. 
Giường chiếu, sàn nhà, tường, những bức tranh 
ngủ say móc treo, then cửa, thảm, bàn 
tủ quần áo, nhà ăn, ngọn nến, rèm cửa sổ. 
Tất cả ngủ say. Cốc chén và chai lọ 
dao thái bánh mì, bát đĩa sứ, pha lê 
cả ngọn đèn đêm, tủ, kính, đồng hồ 
cả những bậc cầu thang và cánh cửa. 
Đêm ở khắp nơi: trong mắt, trong góc phòng, trong tủ 
giữa giấy trắng, trên bàn và cả trong lời 
trong củi, trong kìm, trong góc đã tắt rồi 
cái bếp lò, và trong từng đồ vật. 
Trong áo kamzon(2), trong giày, trong tất 
sau lưng ghế, trên giường và cả trong gương 
trên thập ác, trong chậu, trên vải trải giường 
trong chổi quét sân. Tất cả đều ngủ hết. 
Tất cả ngủ say. Cửa sổ rơi đầy tuyết 
Mái nhà hàng xóm trắng như vải trải bàn. 
Cả khu phố trong giấc ngủ mơ màng 
Khung cửa sổ bị cắt ra như chết. 
Những vòm cửa, bức tường đều ngủ hết 
Đá rải đường, song chắn, những khóm hoa 
ánh sáng không bừng lên, không kẽo kẹt bánh xe… 
những chiếc bàn con, rào giậu và dây xích. 
Ngủ say cửa, tay cầm, từng chiếc móc 
những ổ khóa ngủ say cả khóa lẫn chìa. 
Không còn vang lên tiếng gõ, tiếng thầm thì 
Tất cả ngủ say, chỉ tuyết kêu ken két. 
Ngủ say những chiếc cân, ngủ say nhà ngục 
ngủ say sưa cả những chiếc ghế dài. 
Cả dây xích chó, cả mái hiên ngoài. 
Mèo ngủ say, những đôi tai dựng ngược. 
Luân Đôn ngủ say, cả người lẫn chuột. 
Nước và tuyết, ngủ say những cánh buồm 
sau những thùng xe tất cả ngủ mơ màng 
cả chốn xa xăm với bầu trời ngái ngủ. 
John Donne ngủ say. Và biển cùng anh ngủ. 
Cát trắng trên bờ cũng ngủ say sưa. 
Cả hòn đảo chìm đắm trong giấc mơ. 
Mỗi khu vườn khóa bằng ba ổ khóa. 
Những con cua, cây tùng, cây phong – ngủ cả. 
Những ngọn đồi, những dòng suối, những lối mòn. 
Cáo, chó sói. Cả gấu cũng lên giường. 
Tuyết rơi đầy trước cửa hang trắng xóa. 
Chim cũng ngủ. Tiếng hót không còn nữa. 
Qụa không kêu, họa mi lặng trong đêm 
không tiếng cười. Đồng nước Anh im lìm. 
Chuột nhận lỗi lầm. Một ngôi sao lấp lóa. 
Tất cả ngủ say. Tất cả nằm trong mộ 
những kẻ chết rồi lặng lẽ ngủ yên 
kẻ đang sống ngủ say sưa trên giường. 
Ai cô đơn, ai trong tình ấp ủ. 
Cả núi rừng, những dòng sông đều ngủ. 
Ngủ say sưa cả thú dữ và chim. 
Chỉ tuyết trắng bay liệng từ trời đêm. 
Nhưng rồi lên những mái đầu sẽ ngủ. 
Cả những thiên thần cũng say sưa ngủ 
cuộc đời quên trong giấc mộng thánh thần 
Ngủ say sưa cả Địa ngục, Thiên đàng. 
Không một ai giờ này ra đi cả. 
Thượng Đế ngủ. Mặt đất giờ xa lạ. 
Mắt không nhìn và tai chẳng nghe ra. 
Quỉ sứ ngủ cùng với lòng hận thù 
trên những cánh đồng nước Anh trắng xóa. 
Thiên thần ngủ với kèn. Những người cưỡi ngựa. 
Cùng ngựa ngủ say trong giấc ngủ tròng trành. 
Tất cả thiên thần xếp thành một đám đông. 
Ôm lấy nhau dưới vòm trời của Chúa. 
John Donne ngủ say. Thơ ca đều ngủ cả. 
Mạnh yếu chẳng tìm ra, tất cả những vần 
những hình ảnh, những buồn chán, lỗi lầm 
cũng như thơ, nằm yên trong từ ngữ. 
Mỗi câu thơ như người anh em gần gũi 
dù thủ thỉ bên tai, chỉ một chút nhường. 
Nhưng ai ai cũng rất xa thiên đàng 
nên nghèo khổ, nỗi buồn đoàn kết lại. 
Thơ iambơ cũng ngủ say như vậy. 
Thơ cô-rê giống như kẻ canh chừng. 
Bên phải, bên trái, ngủ say cả cách nhìn. 
Và sự vinh quang cũng ngủ say sau đấy. 
Những tai họa ngủ say. Ngủ say đau đớn. 
Lầm lỗi ngủ say. Thiện và ác ôm nhau. 
Lầm lỗi ngủ say. Tuyết rơi trắng một màu 
trong không gian vặt vãnh tìm vết bẩn. 
Tất cả ngủ say. Sách ngủ say thành đống. 
Dòng sông lời thành băng giá lãng quên. 
Những dòng sông với sự thật của mình. 
Xiềng xích ngủ. Chỉ khua lên rất khẽ. 
Tất cả ngủ. Thượng Đế, thiên thần, quỉ sứ. 
Cả bạn bè, đầy tớ, những đứa con. 
Chỉ tuyết vang lên trong bóng tối con đường. 
Tiếng vọng trên thế gian không còn nữa. 
Nhưng. Anh có nghe trong bóng đêm băng giá 
có ai đó khóc, ai đó thì thầm. 
Có ai đó phó thác cho mùa đông. 
Và khóc lên. Trong bóng đêm ai đó. 
Giọng rất thanh. Mảnh mai như kim nhỏ. 
Nhưng chỉ không còn… Người ấy cô đơn 
bơi trong tuyết. Khắp nơi lạnh và sương… 
Khâu đêm với bình minh… Trên cao đó. 
“Thiên thần chăng? Có ai đang nức nở 
mong trở về đợi tuyết như mùa hè 
của tình yêu? Trong bóng đêm về nhà. 
Anh kêu trong bóng đêm? Câu trả lời chẳng có. 
“Dàn đồng ca buồn. Có phải thiên thần nơi đó 
nhắc cho ta những giọt lệ ngân vang. 
Có phải các ngươi từ giã giáo đường 
đang mê ngủ. Có phải các ngươi?” – Lặng lẽ. 
“Có phải ngươi, Paven? Giọng của ngươi, đúng thế 
đã chai sần bởi giọng nói khô khan. 
Có phải ngươi, mái đầu bạc trong đêm 
khóc ở đó?” Nhưng âm thầm gặp gỡ. 
“Có phải bàn tay che mắt nhìn ngó 
đôi bàn tay khắp nơi thấy lờ mờ? 
Thượng Đế chăng? Dù ý nghĩ vẩn vơ 
Nhưng tiếng khóc nghe chừng rất cao cả”. 
“Có phải thiên thần Gabriel thổi gió 
trong chiếc kèn, ai đó sủa rất to 
chỉ một mình tôi đôi mắt mở ra. 
Đang thắng yên cương những người kị sĩ. 
Tất cả ngủ say. Trong bóng đêm ấp ủ. 
Từ trời xanh chó chạy cả một đàn. 
Có phải thần Gabriel giữa mùa đông 
với chiếc kèn một mình đang nức nở?” 

“Không phải - tôi, John Donne, tôi là hồn anh đó. 
Tôi một mình buồn thấu tận trời xanh 
rằng hồn anh bằng lao động của mình 
tạo nên những tình cảm nặng nề và ý nghĩ. 
Với những thứ này anh bay lên có thể 
giữa những đam mê, giữa những lỗi lầm. 
Anh từng là chim thấy nhân dân mình 
khi bay trên những mái nhà, mọi ngả. 
Anh nhìn thấy cả bao la biển cả. 
Địa ngục kia anh nhìn thấy rõ ràng 
và sau đó anh nhìn thấy Thiên đàng 
trong khổ đau vì đam mê chối bỏ. 
Anh nhìn thấy cuộc đời như đảo nhỏ. 
Và anh từng gặp gỡ với Đại dương 
khắp bốn phía chỉ tiếng rú, bóng đêm. 
Anh giật-lùi rồi bay quanh Thượng Đế. 
Nhưng hành trang vào trời xanh không thả 
để thấy cuộc đời – trăm cái tháp mà thôi 
và dải băng sông nhìn thấy từ trời 
ngày phán xử không có gì đáng sợ. 
Và khí hậu chỉ đứng yên một chỗ. 
Tất cả như một giấc mộng rã rời. 
Thượng Đế là ánh sáng trong cửa sổ mà thôi 
màn sương đêm trong ngôi nhà xa lạ. 
Những cánh đồng không có ai cày cả. 
Không cày tháng năm. Thế kỉ cũng không. 
Chỉ rừng vây quanh bốn phía như tường. 
Chỉ mưa rơi tí tách trên hoa cỏ. 
Người tiều phu đầu tiên với con ngựa nhỏ 
chạy tới nơi rồi lạc lối trong rừng 
vì sợ hãi đã trèo lên cây thông 
trong thung lũng cháy bừng như ngọn lửa. 
Tất cả xa xôi. Ở đây nhìn không tỏ. 
ánh mắt lặng nhìn những mái nhà xa. 
ở đây sáng không nghe tiếng chó nhà 
và tiếng chuông hoàn toàn không nghe rõ. 
Người tiều phu hiểu rằng xa tất cả 
nên đã quay ngựa lại, phóng về rừng. 
Ngay lúc này cả người, ngựa, bóng đêm 
đã trở thành giấc mơ Kinh Thánh đó. 

Không có đường. Tôi khóc lên nức nở. 
Đành quay về với sỏi đá mà thôi. 
Khi còn sống không thể đến nơi này. 
Chỉ sau khi chết tôi về nơi đó. 
ánh sáng của tôi ơi, tôi quên anh nhé 
trong đất đai quên lãng đến muôn đời 
về khổ đau của mong ước tôi bơi 
để thân xác, chia ly đem khâu vá. 
Tôi ngạc nhiên tiếng khóc nơi ngủ trọ 
đang bay vào bóng tối rồi tan ra 
tuyết khâu lại ly biệt của hai ta 
giật tới-giật lùi, đang bay kim nhỏ. 
Không phải tôi thổn thức, – mà anh khóc đó. 
Một mình anh nằm trong tủ đựng đồ 
một khi tuyết còn bay vào ngôi nhà ngủ mê 
một khi tuyết còn bay vào bóng đêm từ đó”. 

Giống như chim, anh ngủ yên trong tổ 
khao khát cuộc đời sẽ tốt đẹp hơn 
đến muôn thuở vào ngôi sao anh tin 
ngôi sao này tia sáng không còn nữa. 
Giống như chim, tâm hồn anh sạch sẽ 
con đường vui, đáng lẽ, phải lỗi lầm 
cái tổ quạ, đáng lẽ, tự nhiên hơn 
trên bầy xám những tổ chim làm giả. 
Giống như chim, ban ngày anh tỉnh ngủ. 
Còn bây giờ nằm dưới tuyết trắng tinh 
bằng giấc mộng, bằng tuyết trắng khâu lên 
khoảng không gian giữa hồn và xác ngủ. 
Tất cả ngủ yên. Nhưng còn chờ đợi nữa 
hai-ba dòng thơ và những miệng nhe răng 
nghĩa vụ nhà thơ - tình yêu của người trần 
còn tình yêu tâm hồn dành cho cha xứ. 
Nước không rơi lên bánh xe ai đó 
là bánh mì nơi trần thế đang vơi. 
Bởi có thể với ai chia sẻ cuộc đời 
thì cái chết ai cùng ta chia sẻ? 
Lỗ trên vải. Ai muốn thì cứ xé. 
Khắp mọi nơi. Đi. Rồi lại quay về 
Giật mạnh nữa! Và chỉ vòm trời kia 
trong bóng đêm lấy chiếc kim người thợ. 
Ngủ yên. John Donne. Ngủ yên, đừng đau khổ. 
áo thủng caftan(3) buồn bã treo cao 
Từ mây đen nhìn xuống một ngôi sao 
đã bao năm thơ của anh gìn giữ. 
1963. 
__________ 

(1)John Donne (Giôn Đôn)(1572-1631) – nhà thơ Anh theo trường phái siêu hình. John Donne hơn 200 năm bị người đời lãng quên. Chỉ đến đầu thế kỷ 20 nhà thơ W. B. Yeats mới tìm thấy bậc tiền bối của mình. J. Brodsky, như ta biết qua bài thơ này, cũng đã đánh giá rất cao John Donne. Thế kỉ XX John Donne, có lẽ, là nhà thơ cổ điển thời thượng nhất ở nước Anh. Ngoài thơ ông còn để lại một quyển sách 3 tập, nổi tiếng như một người thuyết giáo. “Con người không phải là một hòn đảo, không chỉ là tự mình; mỗi người là một phần của lục địa, một phẩn của tổng thể; nếu biển cuốn đi dù chỉ một hòn đất thì châu Âu sẽ trở nên ít hơn, cũng như nếu biển cuốn đi cả vùng đất mũi hay ngôi nhà của bạn anh, hay ngôi nhà của riêng anh. Cái chết của mỗi con người làm cho tôi trở thành ít lại vì tôi là một phần của nhân loại, và bởi thế anh đừng bao giờ hỏi chuông nguyện hồn ai: chuông nguyện hồn anh đấy”. Những lời này của John Donne được nhà văn E. Hemingway dùng làm đề từ và tên của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Chuông nguyện hồn ai”. 
(2)Kamzon - áo cổ, thường là ngắn tay của đàn ông Nga. 
(3)Caftan - áo dài cổ của đàn ông Nga. 


(Xem thêm: Các nhà thơ đoạt giải Nobel)




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét