Pavel Grigoryevcich Antokolsky (tiếng Nga:
Павел Григорьевич Антокольский, 1/7/1896 – 9/10/1978) là nhà văn, nhà thơ, dịch giả Nga và Xô Viết.
Tiểu sử:
Pavel Antokolsky sinh ở Sankt-Peterburg trong gia đình một luật sư. Từ bé đã rất say mê hội họa và đã trình bày một số cuốn sách của mình. Năm 1904 cả gia đình chuyển về Moskva, Pavel Antokolsky học ở trường gymnazy và sau đó học luật ở Đại học Moskva nhưng không tốt nghiệp. Từ năm 1915 làm việc ở nhà hát, năm 1930 trở thành đạo diễn nhà hát và bắt đầu làm thơ. Năm 1920 làm quen với nhà thơ Valery Bryusov và in một số bài thơ ở hợp tuyển Художественное слово. Năm 1922 xuất bản tập thơ đầu tiên Стихотворения. Những năm 1923 – 1928 ông đi thăm các nước Pháp, Đức, Thụy Điển và ý định thành lập “nhà hát thơ”. Cuối những năm 1930 ông dịch nhiều nhà thơ Pháp, Gruzia, Ukraina, Azerbaizan, Armenia ra tiếng Nga. Pavel Antokolsky được đánh giá là có nhiều bản dịch thơ thành công và có những đóng góp quan trong cho trường phái thơ dịch của Liên Xô.
Những năm Thế chiến II ông làm phóng viên chiến trường. Năm 1942 đứa con trai duy nhất của ông hy sinh ngoài mặt trận, ông viết trường ca Сын (Đứa con trai) được tặng Giải thưởng Stalin năm 1943. Ngoаi sáng tác thơ, ông còn viết nhiều tập sách về những nhân vật lịch sử cũng như những danh nhân văn hóa của thế giới. Năm 1960 ông viết tập sách Сила Вьетнама (Sức mạnh của Việt Nam). Pavel Antokolsky trở thành tác gia cổ điển của văn học Nga thế kỷ XX. Ông mất ở Moskva năm 1978.
Tác phẩm:
*1943 Поэма "Сын" (Сталинская премия, 1946)
*1954 Поэма "В переулке за Арбатом"
*1958 Cборник стихов "Мастерская"
*1960 Cборник "Сила Вьетнама. Путевой журнал"
*1962 Cборник "Высокое напряжение"
*1964 Cборник "Четвёртое измерение"
*1969 Cборник "О Пушкине"
*Cборник статей "Пути поэтов" (1965)
ANH YÊU EM
Anh yêu em, khi trong chuyến tàu xa
Trong ánh sáng phòng màu vàng của lửa
Giống như đuổi bắt, giống như nhảy múa
Xuyên qua anh, em bay trong đêm mờ.
Anh yêu em – đen đi vì ánh sáng
Chiếu vào trán, vào hai gò má cao
Không ở thủ đô – thì đâu đó, khi nào
Nhưng dù sao, cái điều này sẽ đến.
Anh yêu em trong gối chăn nóng bỏng
Trong cái khoảnh khắc tràn ngập thủy chung
Khi những bàn tay quấn chặt và buông
Trong yêu thương những vòng tay câm lặng.
Và anh không thể nào quên em đặng
Vì trên đời có nhà hát, có mưa
Có kỷ niệm, có âm nhạc, có thư…
Và vì tất cả những gì sẽ đến.
Я люблю тебя...
Я люблю тебя в дальнем вагоне,
В желтом комнатном нимбе огня.
Словно танец и словно погоня,
Ты летишь по ночам сквозь меня.
Я люблю тебя - черной от света,
Прямо бьющего в скулы и в лоб.
Не в Москве - так когда-то и где-то
Все равно это сбыться могло б.
Я люблю тебя в жаркой постели,
В тот преданьем захватанный миг,
Когда руки сплелись и истлели
В обожанье объятий немых.
Я тебя не забуду за то, что
Есть на свете театры, дожди,
Память, музыка, дальняя почта...
И за все. Что еще. Впереди.
ĐOẠN KẾT
Tuổi già ơi, chớ buồn, đừng thương hại
Rằng tuổi trẻ ta đã chẳng nghe mi
Giờ mi đã không còn lại chút gì
Và không điều gì còn quay trở lại.
Đừng buồn chán, đừng thương xót đầy vơi
Và kết cục lạ thường đừng hy vọng
Nhưng hãy xem – điểm cuối, đừng tuyệt vọng
Nếu như trong bi kịch có ít hồi.
Đúng năm hồi. Chỉ năm hồi!
Kịch Shakespeare là vậy
Vì sự vĩnh hằng, vì đàn bà con gái
Thanh trường kiếm đâm xuyên qua người
Nhưng kẻ đã chết – kết thúc bằng thắng lợi.
Chỉ có thắng lợi này còn lại.
Chỉ có hy vọng này quay lại.
Bước đường xa đang sửa soạn tuổi già.
Sau tuổi già, tuổi trẻ còn đi mãi.
Заключение
Не жалей, не грусти, моя старость,
Что не слышит тебя моя юность.
Ничего у тебя не осталось,
И ничто для тебя не вернулось.
Не грусти, не жалей, не печалься,
На особый исход не надейся.
Но смотри — под конец не отчайся,
Если мало в трагедии действий.
Ровно пять. Только пять!
У Шекспира
Ради вечности и ради женщин
Человека пронзает рапира,
Но погибший — победой увенчан.
Только эта победа осталась.
Только эта надежда вернулась.
В дальний путь снаряжается старость.
Вслед за ней продолжается юность.
LỜI CHÚC RƯỢU
Chúng ta sống trên mặt đất màu xanh
Uống rượu hàng đêm, rồi trở về cát bụi
Hãy quan tâm đến những hành tinh
Đừng một thứ gì no nê quá đỗi
Ta rồi sẽ chết trong sương.
Nhưng ta sẽ đi lên trung thực và nhẹ nhàng
Ta nhìn thấy những giấc mơ phiền muộn
Để lại rồi từ chốn xa xăm
Thời tiết của mùa xuân
Sẽ hôn và làm cho hư hỏng
Làm cho lời ta rét cóng.
Sắt kêu cót két. Và nước tuôn ra
Sao lấp lánh. Kêu vù vù dây điện.
Thế là ta lại tưởng
Thế giới là người khổng lồ
Và ta nhẹ nhàng chấp nhận
Tai họa bất kỳ.
Thời gian muôn năm! Con đường muôn năm!
Hãy mạo hiểm. Chớ rụt rè. Chớ tính điều hơn thiệt.
Còn nếu như sẽ chết
Thì hãy coi chừng, chớ hồi sinh!
Còn bài hát của mình?
Còn bài hát một người nào sẽ hát!
1935
Застольная
Друзья! Мы живем на зеленой земле,
Пируем в ночах, истлеваем в золе.
Неситесь, планеты, неситесь, неситесь!
Ничем не насытясь,
Мы сгинем во мгле.
Но будем легки на подъем и честны,
Увидим, как дети, тревожные сны,-
Чтоб снова далече,
Целуя, калеча,
Знобила нам речи
Погода весны.
Скрежещет железо. И хлещет вода.
Блещет звезда. И гудят провода.
И снова нам кажется
Мир великаном,
И снова легка нам
Любая беда.
Да здравствует время! Да здравствует путь!
Рискуй. Не робей. Нерасчетливым будь.
А если умрешь,
Берегись, не воскресни!
А песня?
А песню споет кто-нибудь!
KHO ĐỰNG ĐỒ
Tưởng nhớ Zoya
Không áo măng-tô, không đùa, không tiền bạc
Chỉ còn lại một cõi lòng câm và điếc.
Khoảng đất trống của anh hay khu vườn
Linh hồn ở lại và nhìn phía sau lưng.
Ở đấy kho chứa những đồ đã bỏ
Mùi hương mùa xuân xuyên vào khe hở.
Anh ở trong kho cùng với linh hồn
Trong lỗ thủng – nhưng anh là của em.
Và em là chiếc bóng của anh ngày trước
Không phải chuyện nghĩ ra trong ngày trời vẩn đục.
Có lẽ là cần ba cuộc đời đem giết
Anh là vậy, như từng yêu em ngày trước.
1929
Кладовая
Памяти Зои
Без шуток, без шубы, да и без гроша
Глухая, немая осталась душа,
Моя или чья-то, пустырь или сад,
Душа остается и смотрит назад.
А там — кладовая ненужных вещей.
Там запах весны пробивается в щель.
Я вместе с душой остаюсь в кладовой,
Весь в дырах и пятнах — а все-таки твой,
И все-таки ты, моя ранняя тень,
Не сказка, не выдумка в пасмурный день.
Наверно, три жизни на то загубя,
Я буду таким, как любил я тебя.
Tưởng nhớ Zoya
Không áo măng-tô, không đùa, không tiền bạc
Chỉ còn lại một cõi lòng câm và điếc.
Khoảng đất trống của anh hay khu vườn
Linh hồn ở lại và nhìn phía sau lưng.
Ở đấy kho chứa những đồ đã bỏ
Mùi hương mùa xuân xuyên vào khe hở.
Anh ở trong kho cùng với linh hồn
Trong lỗ thủng – nhưng anh là của em.
Và em là chiếc bóng của anh ngày trước
Không phải chuyện nghĩ ra trong ngày trời vẩn đục.
Có lẽ là cần ba cuộc đời đem giết
Anh là vậy, như từng yêu em ngày trước.
1929
Кладовая
Памяти Зои
Без шуток, без шубы, да и без гроша
Глухая, немая осталась душа,
Моя или чья-то, пустырь или сад,
Душа остается и смотрит назад.
А там — кладовая ненужных вещей.
Там запах весны пробивается в щель.
Я вместе с душой остаюсь в кладовой,
Весь в дырах и пятнах — а все-таки твой,
И все-таки ты, моя ранняя тень,
Не сказка, не выдумка в пасмурный день.
Наверно, три жизни на то загубя,
Я буду таким, как любил я тебя.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét