Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Tư, 8 tháng 2, 2017

Thơ Apollon Grigoryev


Apollon Aleksandrovich Grigoryev (tiếng Nga: Аполлон Александрович Григорьев, 20 tháng 7 năm 1822 - 25 tháng 9 năm 1864) là nhà thơ, nhà phê bình, dịch giả người Nga. 

Tiểu sử: 
Apollon Grigoryev sinh Moskva. Ông nội là một nông dân tỉnh lẻ lên Moskva làm công chức và phấn đấu lên tầng lớp quí tộc. Bố từng làm thư ký tòa thị chính thành phố. Apollon Grigoryev có được sự giáo dục tốt của gia đình, không cần học gymnazy (như trường phổ thông bây giờ) mà vào thẳng Đại học Moskva học khoa luật. Ông là người bảo vệ luận án tiến sĩ đầu tiên của khoa luật trường này. Những năm 1842-1843 làm việc thư viện trường, cuối năm 1843 làm thư ký Hội đồng Đại học Moskva, kết bạn với Fet, Polonsky, Solovyov. Họ thành lập nhóm văn học trong trường và thường xuyên đọc tác phẩm của mình trước công chúng. 

Apollon Grigoryev bắt đầu in thơ từ năm 1843. Thời kỳ này ông viết nhiều thơ tình về một tình yêu không được đáp lại. Thất tình ông bỏ về Sankt-Peterburg làm việc 2 năm Nghị viện. Từ năm 1848 – 1857 ông dạy luật một số trường Đại học, năm 1850 tham gia tạp chí Москвитянин (Moskvityanin), trở thành nhà phê bình sân khấu nổi tiếng. Năm 1856 tạp chí này bị đóng cửa, ông được mời cộng tác với các tạp chí Русскую беседуСовременник. Những năm 1852 – 1857 ông lại đau khổ vì một tình yêu không được đáp lại. Thời kỳ nаy ông viết được nhiều bài thơ mà Aleksandr Blok gọi lа “những viên ngọc của thơ trữ tình Nga”. 

Những năm 1857 – 1858 ông ra nước ngoài, sống ở Pháp. Trở về Nga, tiếp tục cộng tác với các tờ tạp chí ВремяЭпоха do Mikhail Dostoevsky làm chủ bút. Thời kỳ nаy ông viết nhiều hồi kí theo lời khuyên của Mikhail Dostoevsky. Những năm cuối đời ông sống trong cảnh nợ nần và nghiện rượu. Ông mất ở Sankt-Peterburg năm 1864. 



Một số bài thơ


ANH HÀNH HẠ, KHỔ SỞ VÌ NỖI BUỒN
(Я измучен, истерзан тоскою...)


Anh hành hạ, khổ sở vì nỗi buồn 
Nhưng với em, thiên thần, anh chẳng nói 
Không bao giờ em biết vì sao vậy 
Anh lang thang, thơ thẩn giống người điên. 

Có những phút giây mà những lời em 
Mang lại cho anh một niềm hạnh phúc 
Anh trao tất cả, những gì quí nhất 
Đ
ổi lấy bàn tay và ánh mắt nhìn. 

Có những phút giây giận dữ điên cuồng 
Và hằng đêm anh thở than nức nở 
Có trời biết, anh xin làm tất cả 
Chỉ đ được nằm dưới chân em. 

Có những phút giây, mà anh thấy không 
Biết cách dìm nỗi cuồng điên khao khát 
Anh van emcho dù em lạnh ngắt 
Hãy thương anh và thương bản thân mình! 


Я измучен, истерзан тоскою

Я измучен, истерзан тоскою...
Но тебе, ангел мой, не скажу
Никогда, никогда, отчего я,
Как помешанный, днями брожу.

Есть минуты, что каждое слово
Мне отрава твое и что рад
Я отдать все, что есть дорогого,
За пожатье руки и за взгляд.

Есть минуты мучений и злобы,
Ночи стонов безумных таких,
Что, бог знает, не сделал чего бы,
Лишь упасть бы у ног у твоих.

Есть минуты, что я не умею
Скрыть безумия страсти своей...
О, молю тебя - будь холоднее,
И меня и себя пожалей!



GỬI
К *** (Ты веришь в правду и в закон)


Anh có tin sự thật, có tin luật pháp 
Anh hãy nói với em, chớ có đùa? 
-“
Em ơi, tình yêu là luật pháp 
Còn sự thật, đó là 
Anh yêu em, em yêu ”. 

-“
Nhưng mà những ước mơ cao cả 
Anh có tin hay không? 
-“
Em ơi, em còn cao cả hơn 
Cả ước mơ, và còn gì cao cả hơn vẻ đẹp? 
Câu trả lời em tìm trong chính mình!” 

-“
Thế vào cái Thiện 
Và tự do, anh có tin?” 
-“Đ
làm gì, em yêu? Khi đó 
Anh không hạnh phúc, không nô lệ 
Của sắc đẹp, của tình”. 

-“
Thế tình yêu muôn thuở 
Anh có tin không? 
-“
Em ơi! Con sóng là tình 
Sóng và sóng có còn gặp nữa 
Chỉ có trời biết được thôi em!” 

-“
Nếu thế thì – anh hãy tin sự mê say 
Anh hãy trao hết mình cho nó!” 
-“
Liệu em có biết anh tin sự mê say? 
Nhưng mà anh giữ quyền cho lý trí 
Và sẽ hạnh phúc gấp đôi!”


К *** (Ты веришь в правду...)

"Ты веришь в правду и в закон,
   Скажи мне не шутя?"
- "Дитя мое, любовь - закон,
И правда - то, что я влюблен
   В тебя, мое дитя".

- "Но в благородные мечты
   Ты веришь или нет?"
- "Мой друг, ты лучше, чем мечты,-
Что благородней красоты?
   В тебе самой ответ!"

- "Хотя в добро бы иль хотя б
   В свободу верил ты?"
- "К чему, дитя мое? Тогда б
Я не был счастлив, не был раб
   Любви и красоты".

- "Хотя бы в вечную любовь
   Ты верить, милый, мог?"
- "Дитя мое! волна - любовь,
Волна с волной сойдется ль вновь -
   То знает только бог!"

- "Ну, если так - то верь хоть в страсть,
   Предайся ей вполне!"
- "Тебе ль не знать, что верю в страсть?
Но я, храня рассудка власть,
   Блаженствую вдвойне!"

Thơ Vera Inber


Vera Mikhaylovna Inber (tiếng Nga: Ве́ра Миха́йловна И́нбер, 28 tháng 6 năm 1890 – 11 tháng 11 năm 1972) là nữ nhà văn, nhà thơ Nga.

Tiểu sử: 
Vera Inber sinh ở Odessa (nay là Ukraina), bố là chủ một nhà xuất bản, mẹ là giáo viên dạy tiếng Nga. Học xong gymnazy, Vera Inber vào học khoa lịch sử và ngôn ngữ ở trường Đại học nữ Odessa. Bắt đầu in thơ từ năm 1910 ở các báo địa phương, sau đó in ở tạp chí Солнце России (1912). Từ 1910 đến 1914 sống ở Pháp và Thụy Sĩ, năm 1914 in tập thơ đầu tiên Печальное вино ở Paris. Trở về Odessa năm 1914 tiếp tục sáng tác thơ, viết kịch và thử sức trong lĩnh vực biểu diễn sân khấu. Năm 1917 in tập thơ thứ hai Горькая услада ở Petrograd. Năm 1922 bà chuyển về Moskva, cộng tác với các tờ tạp chí Огонек và Красная нива. Nghề báo không cản trở bà in thơ thường xuyên: Цель и путь (1925), Мальчик с веснушками (1926), Сыну, которого нет (1927), Избранные стихи (1933). Thời kỳ Thế chiến II bà sống ở thành phố Leningrad bị bao vây. Trường ca Пулковский меридиан (1941-1943) của bà sáng tác trong thời kỳ này được tặng giải thưởng Stalin (giải thưởng Nhà nước) năm 1946. Bà cũng là tác giả của các cuốn sách Душа Ленинграда, О ленинградских детях, О Ленинграде, được viết trong thời kỳ này. 

Những năm sau chiến tranh bà tiếp tục làm thơ, viết văn và dịch thơ Taras Shevchenko, Paul Eluard, Sándor Petőfi ra tiếng Nga. Những năm cuối đời bà vào Hội Nhà văn và tham gia ban biên tập của tạp chí Знамя. Vera Inber mất ở Moskva năm 1972. 

Tác phẩm: 
*Сборник стихов «Печальное вино» (1914) 
*Сборник стихов «Горькая услада» (1917)
 
*Сборник стихов «Бренные слова» (1922)
 
*Сборник стихов «Цель и путь» (1925)
 
*Рассказы «Уравнение с одним неизвестным» (1926)
 
*Сборник стихов «Мальчик с веснушками» (1926)
 
*Рассказы «Ловец комет» (1927)
 
*Сборник стихов «Сыну, которого нет» (1927)
 
*Сборник стихов «Избранные стихи» (1933)
 
.................................

................................



TẤT CẢ DƯỚI SAO TRỜI

Tất cả dưới sao trời 
Chờ đến lượt. 
Và thời tan của tuyết 
Sẽ đến nơi. 
Và mây đen lên đá granit 
Sẽ rót nỗi buồn. 
Và ánh trăng mạ bạc 
Lên bụi hạnh nhân. 
Và nước sẽ có mùi hương 
Và tiếng vỗ bờ sẽ khác. 
Và em ra đi, như mọi lúc 
Vào mùa xuân. 
Và hai chúng mình giã biệt 
Anh yêu của em 
Và liệu ta có còn 
Gặp lại nhau không biết? 


Всему под звездами готов

Всему под звездами готов
   Его черед.
И время таянья снегов
   Придет.
И тучи мая на гранит
   Прольет печаль.
И лунный луч осеребрит
   Миндаль.
И запах обретет вода
   И плеск иной,
И я уеду, как всегда,
   Весной.
И мы расстанемся, мой свет,
   Моя любовь,
И встретимся с тобой иль нет
   Вновь?
1919


TÔI QUÊN HẾT


Tôi quên hết: ánh mắt và dáng đi 
Mái tóc, nụ cười, trước khi đi ngủ 
Nhưng dù sao, còn đấy, một tình yêu 
Giống như bông lúa. 

Nhưng dù sao tôi cúi xuống. Kẻ qua đường 
Đ
i cho nhanh, và đừng quay trở lại 
Một tình yêu không thể nào quên 
Trong tôi còn đấy. 


Забыла все: глаза, походку, голос

Забыла все: глаза, походку, голос,
Улыбку перед сном;
Но все еще полна любовью, точно колос
Зерном.

Но все еще клонюсь. Идущий мимо,
Пройди, уйди, не возвращайся вновь:
Еще сильна во мне, еще неодолима
Любовь.
1919



NGƯỜI CHIẾN THẮNG

Tuyết, đường xấu, bụi nóng, khô hanh 
Trận đánh, bãi mìn và gió kẽm 
Trong quân phục của mình, em đã nếm 
Em, người lính trở về từ chiến tranh. 

Em theo nhà máy về miền Ural 
Bỏ ngôi nhà, chưa mọt lần khóc lóc 
Bàn tay phụ nữ làm ngạc nhiên sắt thép 
Nhưng mà qui phục, tuy nhiên. 

Ta là người chiến thắng. Tiếng súng đã im 
Đã
qua thời kỳ chiến tranh khó nhọc 
Em nhớ lại, qua nghề của đàn ông 
Nhưng phụ nữ là em, trước hết. 

Ngày tháng ba. Một giọt nước màu xanh 
Rơi lên mái nhà, xuyên qua khe hở. 
Phòng lặng lẽ. Một chiếc nôi bên tường 
Trên cốc nước màu trắng từ hoa quả. 

Đ
ứa bé nằm ngủ ôm chiếc gối mềm 
Mặt trời dịu dàng xuyên vào mái tóc. 
Em giơ tay, thì thầm: “Xin lặng yên 
Kẻo bé con thức giấc”. 
1946


Победительница

Снег, бездорожье, горячая пыль, суховей.
Минное поле, атака, свинцовая вьюга —
Все испытала, в походной шинели своей,
Ты, боевая подруга.

Ты уезжала с заводом своим на Урал.
Бросила дом свой, ни разу о нем не заплакав.
Женским рукам удивлялся горячий металл,
Но покорялся, однако.

Мы — победители. Пушечный грохот утих.
Минуло время тяжелой военной заботы.
Вспомнила ты, что, помимо профессий мужских,
Женщина прежде всего ты.

Мартовский солнечный день. Голубая капель
Точит под крышей себе ледяную лазейку.
В комнате тихо, светло. У стены — колыбель
Под белоснежной кисейкой.

Мягкую обнял подушечку сонный малыш.
Нежное солнце сквозит в золотых волосенках.
Руку поднявши, ты шепчешь: «Пожалуйста... тшшш,
Не разбудите ребенка».
1946