Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2017

Thơ Stepan Schipachev


Stepan Petrovich Schipachev (tiếng Nga: Степан Петрович Щипачёв, 26 tháng 12 năm 1898 - 31 tháng 12 năm 1979) là nhà thơ Nga Xô Viết.

Tiểu sử:
Stepan Schipachev sinh ở làng Schipachi, tỉnh Sverdlovsk vùng Ural trong một gia đình nông dân, sớm mồ côi bố mẹ cậu bé phải bán hàng và làm công nhân từ nhỏ. Những năm 1919 - 1931 phục vụ trong quân đội. Năm 1923 in tập thơ đầu tiên ở Simferopol, vùng Crimea. Năm 1934 ông tốt nghiệp khoa văn trường Đại học giáo sư đỏ (Институт Красной профессуры). Những năm 1930 là thời kỳ ông viết được nhiều bài thơ hay nhất. Ngoài thơ, ông còn viết truyện nhưng thể loại thành công nhất là thơ trữ tình. Năm 1939 ông tham gia giải phóng miền tây Ukraina. Những năm thế chiến II ông làm việc ở ngành xuất bản quân đội.
 

Stepan Schipachev được tặng nhiều huân, huy chương của nhà nước Liên Xô. Năm 1973 tuyển tập tác phẩm của ông gồm 3 tập được xuất bản. Thơ của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt.

Tác phẩm:
*"По курганам веков" (1923)
*"Одна шестая" (1931)
*"Наперекор границам" (1932)
*"Под небом Родины моей" (1937)
*"Лирика" (1939)
*«Фронтовые стихи» (1942)
 
*«Строки любви» (1945)
 
*«Славен труд» (1947)
*«Стихотворения» (1948)
 
*«Товарищам по жизни» (1972)
 
*«Домик в Шушенском» (1944)
 
*«Павлик Морозов» (1950)
*"Наследник" (1965)
*"Песнь о Москве" (1968)
*«12 месяцев вокруг Солнца» (1969)
 
*«Березовый сок» (1956)



HÃY GÌN GIỮ TÌNH YÊU

(Любовью дорожить умейте)

Hãy gìn giữ tình yêu và hãy nhớ rằng
Qua tháng năm càng quí tình hơn cả.
Tình - đâu chỉ là đi dạo dưới trăng
Đâu chỉ tiếng thở dài trên ghế đá.

Có tất cả: cả tuyết bột, bùn lầy
Bởi cùng nhau sống đến ngày đầu bạc.
Tình yêu giống như một bài hát hay
Mà bài hát đâu dễ dàng sáng tác.


Любовью дорожить умейте

Любовью дорожить умейте,
С годами дорожить вдвойне.
Любовь не вздохи на скамейке
и не прогулки при луне.

Все будет: слякоть и пороша.
Ведь вместе надо жизнь прожить.
Любовь с хорошей песней схожа,
а песню не легко сложить.


EM HÃY TIN RẰNG

(Поверь, ты все в моей судьбе)

Em hãy tin rằng: em trong cuộc đời anh
Là tất cả: hạnh phúc và tai họa
Trong cuộc đời anh có thể dối em
Nhưng trong thơ thì anh không thể.


Ôi, giá như vào khung cửa sổ
Em nhìn vào số phận của anh
Cả hai ta đều không biết được rằng
Ai ở gần hơn cái chết.


Chỉ một điều anh tha thiết
Cứ mỗi ngày sẽ mạnh hơn
Anh mong cho tình anh
Sẽ cứu anh thoát chết.


Поверь, ты – всё в моей судьбе

Поверь, ты – всё в моей судьбе:
И счастье, и беда…
Я в жизни мог солгать тебе,
А в песне - никогда!

О, если б, как в своё окно,
Взглянуть в судьбу хоть раз!
Нам знать, с тобою, не дано,
Чей ближе смертный час…

Я одного желаю вновь
Сильней день ото дня:
Желаю, чтоб твоя любовь
Пережила меня!



ÁNH SÁNG CỦA NGÔI SAO
Свет звезды (Вечерний свет звезды)

ánh sáng của ngôi sao ban chiều
Giữa trời cao lấp lánh
Khu vườn trầm tư mặc tưởng
Và anh bỗng thấy cô liêu.

ánh sáng ở đây, bên anh
ánh sáng của ngôi sao xa thẳm
Đi qua hàng nghìn năm ánh sáng
ánh sáng của sao chạy đến bên anh.

Còn em cách xa có một dặm đường
Liệu có còn lâu sửa soạn
Và để cho anh không phải đoán
Em hãy đến bây giờ với người thương.



Свет звезды

Вечерний свет звезды
мерцает в вышине;
задумались сады,
и стало грустно мне.

Он здесь, в моем окне,
звезды далекой свет,
хотя бежал ко мне
сто сорок тысяч лет.

А вам езды-то час,
и долго ли собраться!
А нет чтоб догадаться
приехать вот сейчас.


KHI EM BÊN ANH

(Ты со мной - и каждый миг мне дорог)

Khi em bên anh - anh quí từng khoảnh khắc
Có thể là phía trước, những tháng năm
Ta sẽ xa nhau mà không biết được rằng
Không bao giờ hai đứa còn gặp mặt.

Chỉ những ngôi sao trong giờ gặp gỡ
Vẫn cứ toả ra ánh sáng của mình
ở đâu trong đời giá băng, khi đó
Anh còn tìm ra dấu vết của em.
1944


Ты со мной - и каждый миг мне дорог

Ты со мной - и каждый миг мне дорог.
Может, впереди у нас года,
но придет разлука, за которой
не бывает встречи никогда.

Только звезды в чей-то час свиданья
будут так же лить свой тихий свет.
Где тогда в холодном мирозданье,
милый друг, я отыщу твой след?


EM CỨ GỌI ĐIỀU NÀY
(Как хочешь это назови)

Em cứ gọi điều này như ý muốn.
Hai chúng mình bỗng thấy quí nhau hơn
Quan tâm đến nhau và dịu dàng hơn
Nhưng có điều gì làm anh lo lắng?

Anh lại cũng hay tin vào giấc mộng
Và lại cũng hay suy nghĩ, thẫn thờ
Tình càng mạnh, càng rõ một điều là
Vì tình yêu mà chúng mình lo lắng.
1944


Как хочешь это назови

Как хочешь это назови.
Друг другу стали мы дороже,
Заботливей, нежней в любви,
Но почему я так тревожен?

Стал придавать значенье снам,
Порой задумаюсь, мрачнея...
Уж, видно, чем любовь сильнее,
Тем за неё страшнее нам.


CÓ PHẢI ĐÃ QUÊN

(Забыть ли блеск твоих глаз)

Có phải đã quên ánh mắt của em
Và nụ hôn nồng cháy
Nếu như không chỉ một lần
Qua nước mắt gương mặt em anh thấy.


Nhưng để cho phía trước không còn lại
Thì tai họa xin cứ đến lúc này
Em là nỗi đau trong lồng ngực anh đây
Và sẽ còn mãi mãi.
1949


Забыть ли блеск твоих глаз 

Забыть ли блеск твоих глаз,
Рук твоих жарких кольцо,
Если сквозь слезы не раз
Я видел твое лицо.
Что б ни было впереди,
Приди любая беда,
Ты болью в моей груди
Останешься навсегда.



BÊN BỜ BIỂN
(У моря)

Tôi biết sóng và đá đang tranh luận.
Giữa những vách đá màu xám và xanh
Và tôi gặp một cô nàng bên biển
Tôi liền kêu: “Ở đây đẹp tuyệt trần!”

Chúng tôi đi dạo bên biển hồi lâu.
Và cứ mỗi buổi chiều em lại đến. 
Chiếc xuống con lắc lư bên bờ biển
Và nằm trên bãi cát ba mái chèo. 

Chúng tôi trò chuyện với nhau nhẹ nhàng
Lời đặc biệt tôi không đi tìm kiếm.
Đôi bàn tay ngăm đen vì gió biển
Tôi hôn lên bàn tay nhỏ của em.

Và hôm nay em dễ thương không còn
Không còn đôi bàn tay em nồng ấm.
Thiên hạ nói rằng biển đang dần cạn
Rằng tình yêu đã hết, tôi không tin.
1938

У моря 

Знаю я, как волны с камнем спорят.
Меж сырых голубоватых скал
повстречал я девушку у моря.
- Хорошо здесь!- только и сказал.

Долго мы на берегу стояли.
Под вечер она опять пришла.
Круглобокий колыхался ялик,
на песке лежали три весла.

И легко нам было в разговоре,
слов особенных я не искал.
Смуглые, забрызганные морем,
маленькие руки целовал,

И сегодня - нет ее милее,
так же все ладонь ее тепла.
Пусть твердят, что и моря мелеют,
я не верю, чтоб любовь прошла.

Thơ Igor Severyanin


Igor Severyanin (tiếng Nga: Игорь Северянин, là bút danh của Igor Vasilyevich Lotaryov, 16 tháng 5 năm 1887 - 20 tháng 12 năm 1941) - nhà thơ Nga thế kỷ bạc.

Tiểu sử:
Igor Severyanin sinh ở Sank-Peterburg trong gia đình một kỹ sư quân đội. Năm 1904, học xong lớp 4, đi về vùng Viễn đông cùng với bố, sau đó bố mất, trở lại Sank-Peterburg với mẹ. Năm 1904 bỏ tiền ra in tập thơ đầu tiên. Severyanin bắt đầu nổi tiếng từ năm 1911, sau khi được nhiều nhà thơ nổi tiếng để ý và khen ngợi. Năm 1913 in tập Громокипящий кубок (Chiếc cốc sôi to), nhà thơ Fyodor Sologub viết lời giới thiệu, đã thành công vang dội. Severyanin được mời đọc thơ ở Bảo tàng Bách khoa Moskva và được tôn vinh là “Ông hoàng của các nhà thơ”. Sau đó nhà thơ Fyodor Sologub mời Severyanin tham gia chuyến công du khắp đất nước, đi đọc thơ từ Minsk đến Kutaisy.
Thời gian sau đấy, Severyanin thành lập nhóm thơ Ego-Futurists. Năm 1914 kết hợp cùng với nhóm Kubo-Futurists của Burlyuk và Mayakovsky tổ chức chuyến đi về nhiều thành phố đọc thơ.

Năm 1918 đi nghỉ ở Estonia. Năm 1920 Estonia tách khỏi nước Nga Sa hoàng, Severyanin muốn quay trở về Nga nhưng không thể, trở thành người sống lưu vong. Ông lấy vợ người Estonia, sống một cuộc sống đạm bạc, bằng lòng với cuộc sống xứ người nhưng luôn nhớ về nước Nga trong những sáng tác của mình. Thơ của Severyanin mang màu sắc chủ nghĩa lãng mạn cá nhân và mối hoài cảm về cố quốc. Ngoài sáng tác thơ ông còn dịch nhiều nhà thơ các nước ra tiếng Nga. Ông mất năm 1941 vì bệnh nhồi máu cơ tim ở Tallinn, khi đó bị Đức chiếm đóng.
 

Tác phẩm:

*Зарницы мысли (1908) 
*Качалка грёзэрки (1912) 
*Громокипящий кубок (1913) 
*Златолира (1914) 
*Ананасы в шампанском (1915) 
*Wictoria regia (1915) 
*Поэзоантракт» (1915) 
*Собрание поэз (1916) 
*За струнной изгородью лиры (1918) 
*Поэзо-концерт (1918) 
*Собрание поэз (1918) 
*Creme de Violettes (1919) 
*Puhajogi (1919) 
*Вервэна (1920) 
*Менестрель (1921) 
*Миррэлия (1922) 
*Роман в стихах «Падучая стремнина» (1922) 
*Комедия «Плимутрок» (1922) 
*Фея Eiole (1922) 
*Соловей (1923) 
*Трагедия титана (1923) 
*Автобиографический роман в стихах «Колокола собора чувств» (1925) 
*Роса оранжевого часа (1925) 
*Адриатика (1932) 
*Медальоны (1934) 




CÓ THỂ EM YÊU NHƯNG MÀ EM KHÔNG NÓI
(Быть может, и любит, да только не скажет)

Có thể em yêu nhưng mà em không nói
Không nói ra, tình cảm chẳng cho xem
Mà không được xem thì làm sao biết nổi
Biết thế nào, nếu em cứ lặng im.
Em lo âu, em tự hành hạ mình
Mà có thể không yêu anh, có thể vậy!
1916


Быть может, и любит, да только не скажет...

Быть может, и любит, да только не скажет...
Да только не скажет и чувств не покажет.
А раз не покажет - так что в этом толку.
Да, что в этом толку - любить втихомолку.
Надеждой терзает, надеждой тревожит...
А может быть вовсе не любит? Быть может!


TÌNH KHÔNG TRỞ LẠI

Сонет (Любви возврата нет, и мне как будто жаль)

Tình không trở lại, anh thấy tiếc vô cùng
Những ngày vui của tình yêu thuở ấy
Giờ không còn ánh mắt em mệt mỏi
Trong ánh mắt ngời miền bí ẩn xa xăm.

Tình không trở lại, trong lòng anh nỗi buồn
Như trên tuyết dần tan khắp mọi ngả
Không trả lại em phút giây tình thắm đỏ
Tình không còn - tháng Hai cũng bâng khuâng.

Sao vô vàn giữa khô cạn đại dương
Chiếu lạnh lẽo giữa hằng hà vô số
ánh sáng lạnh lùng, ánh sáng đau thương

Không số phận, không âu yếm đã từng
Anh hiểu rằng hạnh phúc không còn nữa
Tình không trở lại, tình đã không còn!..
1908


Любви возврата нет

Любви возврата нет, и мне как будто жаль
Бывалых радостей и дней любви бывалых;
Мне не сияет взор очей твоих усталых,
Не озаряет он таинственную даль…

Любви возврата нет, — и на душе печаль,
Как на снегах вокруг осевших, полуталых.
— Тебе не возвратить любви мгновений алых:
Любви возврата нет, — прошелестел февраль.

И мириады звёзд в безводном океане
Мигали холодно в бессчетном караване,
И оскорбителен был их холодный свет:

В нём не было былых ни ласки, ни участья…
И понял я, что нет мне больше в жизни счастья,
Любви возврата нет!..



PUSKIN
(Он, это - чудное мгновенье)

Anh, đó chính là - Phút giây huyền diệu
Đã ghi sâu tâm khảm đến muôn đời
Anh là hiện thân của nguồn Xúc cảm ấy
Trước nguồn Cảm hứng này Cát bụi cũng xin lui.

Chỉ mình anh trong lòng người đang sống
Không thành tử thi dù đã lâm chung
Anh muôn thuở trong lòng người, vẫn sống
Cái chết ở đây không nói “cuối cùng”.

Bởi trong thơ anh trị vì Cái đẹp
Cái đẹp chỉ ra vẻ mặt muôn đời
Ta chẳng hình dung là anh đã chết
Và điều này - anh vĩ đại quá thôi!

Dù anh đã già đối với người đời
Nhưng với anh, những con người hiện tại
Rất nhỏ bé: bởi Phút giây huyền diệu ấy
Còn tuyệt vời hơn cả thế kỷ của tôi!


Пушкин (Он — это чудное мгновенье)

Он — это чудное мгновенье,
Запечатленное в веках!
Он — воплощенье Вдохновенья,
И перед ним бессилен прах…
Лишь он один из всех живущих
Не стал, скончавшись, мертвецом:
Он вечно жив во всех поющих,
И смерть здесь не звучит «концом».
В его созданьях Красота ведь
Показывает вечный лик.
Его нам мертвым не представить
Себе, и этим он велик!
Пускай он стар для современья,
Но современье для него
Ничтожно: ведь его мгновенье —
Прекрасней века моего!



GẶP GỠ ĐỂ RỒI CHIA XA
Поэза странностей жизни (Встречаются, чтоб расставаться) 

Gặp gỡ để rồi chia xa
Yêu để mà không yêu nữa.
Ta muốn cười lên hề hề
Ta muốn khóc lên nức nở!
Thề thốt để nuốt lời thề
Ước mơ để rồi nguyền rủa…
Thật khổ cho người hiểu ra
Tất cả những trò vô bổ.
Ở quê muốn lên thành phố
Ở phố muốn về quê chơi
Đâu đâu cũng gương mặt người
Mà sao lòng lang dạ thú…
Sắc đẹp thường hay quái gở
Quái hình có vẻ đẹp xinh
Thường có cao thượng đê hèn
Vô tội cả điều ác dữ.
Làm sao không khóc nức nở
Làm sao không cười hề hề
Khi nào có thể chia xa
Khi nào thì không yêu nữa?


Встречаются, чтоб расставаться

Встречаются, чтоб расставаться,
Влюбляются, чтоб разлюбить.
Мне хочется расхохотаться
И разрыдаться, и не жить!
Клянутся, чтоб нарушить клятвы,
Мечтают, чтоб клянуть мечты...
О, горе тем, кому понятны
Все наслаждения тщеты.
В деревне хочется столицы...
В столице хочется души...
И всюду человечьи лица
Бесчеловеческой души...
Как часто красота уродна
И есть в уродстве красота...
Как часто низость благородна
И злы невинные уста.
Так как же не расхохотаться,
Не разрыдаться, как же жить,
Когда возможно расставаться,
Когда возможно разлюбить? 


KINH NGHIỆM ĐAU BUỒN

(Грустный опыт)

Tôi rút ra một kinh nghiệm đau buồn
Cái gì xa lạ vẫn là xa lạ.
Đi về nhà mặt nước vịnh như gương
Giờ mùa xuân đang về bên cánh cửa.

Còn một mùa xuân nữa. Có thể là
Xuân cuối cùng. Nhưng mà không sao cả
Mùa xuân giúp cho tâm hồn hiểu ra
Điều tốt đẹp của ngôi nhà từ bỏ.

Có của mình, đừng xây thêm cái nữa
Chỉ bằng lòng với một thứ mà thôi
Thật dột làm chủ cái của người:
Cái gì xa lạ vẫn là xa lạ.
1936


ГРУСТНЫЙ ОПЫТ

Я сделал опыт. Он печален.
Чужой останется чужим.
Пора домой; залив зеркален,
Идет весна к дверям моим.

Еще одна весна. Быть может,
Уже последняя. Ну, что ж,
Она постичь душе поможет,
Чем дом покинутый хорош.

Имея свой, не строй другого.
Всегда довольствуйся одним.
Чужих освоить бестолково:
Чужой останется чужим.



TÔI CHƯA BAO GIỜ LỪA DỐI GÌ AI
(Я не лгал никогда никому)

Tôi chưa bao giờ lừa dối gì ai
Chính vì thế mà đời tôi đau khổ
Chính vì thế mà người ta phỉ nhổ
Chẳng ai cần tôi cũng bởi điều này.

Chưa bao giờ tôi lừa dối gì ai.
Chính vì thế cuộc đời trôi buồn bã.
Danh vọng, tình yêu tôi đều xa lạ
Vốn là bản chất gian dối của đời.

Tôi không biết con đường đi về nơi
Có tiếng cười bán mua và khen ngợi
Nhưng lòng tôi có một điều an ủi:
Tôi chưa bao giờ lừa dối gì ai.
1909


Я НЕ ЛГАЛ

Я не лгал никогда никому,
Оттого я страдать обречен,
Оттого я людьми заклеймен,
И не нужен я им потому.

Никому никогда я не лгал.
Оттого жизнь печально течет.
Мне чужды и любовь, и почет
Тех, чья мысль - это лживый закал.

И не знаю дороги туда,
Где смеется продажная лесть.
Но душе утешение есть:
Я не лгал никому никогда.


ĐỪNG GANH TỴ
(Не завидуй другу, если друг богаче)

Đừng ganh tỵ, nếu như bạn giàu hơn
Bạn đẹp hơn và thông minh hơn hẳn.
Để cho giàu có, thành công người bạn
Không làm đôi chân mình phải run lên… 

Hãy bước đi theo con đường của mình
Và mỉm cười trước thành công của bạn:
Như là hạnh phúc của mình trên ngưỡng
Còn người ta – tiếng khóc, cảnh khốn cùng. 

Hãy cười lên! Khóc bằng nước mắt người khác!
Hãy cảm nhận bằng tất cả trái tim!
Đừng ngăn người hoan hỉ trước thành công:
Đấy là bất nhân! Đấy là tội ác!
1909

Не завидуй другу..

Не завидуй другу, если друг богаче,
Если он красивей, если он умней.
Пусть его достатки, пусть его удачи
У твоих сандалий не сотрут ремней…

Двигайся бодрее по своей дороге,
Улыбайся шире от его удач:
Может быть, блаженство – на твоем пороге,
А его, быть может, ждут нужда и плач.

Плачь его слезою! Смейся шумным смехом!
Чувствуй полным сердцем вдоль и поперек!
Не препятствуй другу ликовать успехом:
Это – преступленье! Это – сверхпорок!


BÀI XTĂNGXƠ

Hạnh phúc cuộc đời – ở trong tia lửa
Là ở trong sự giác ngộ thoáng qua
Trong giấc mơ tươi sáng, nhưng thanh tao
Và ở trong đôi mắt em mệt lử.

Đau khổ – là ở trong muôn đời lầm lỡ
Trong sự tranh cãi với chúng thường xuyên
Trong sự nhạo báng của những bậc đại hiền
Trong sự mưu cầu hạnh phúc – là đau khổ.
1907

СТАНСЫ

Счастье жизни - в искрах алых,
В просветленьях мимолетных,
В грезах ярких, но бесплотных,
И в твоих очах усталых.

Горе - в вечности пороков,
В постоянном с ними споре,
В осмеянии пророков
И в исканьях счастья - горе.
1907 


KHÔNG HƠN MỘT GIẤC MƠ

Hôm qua tôi mơ một giấc mơ lạ lùng:
Tôi đi cùng cô gái đọc thơ Blok.
Ngựa lặng lẽ đi. Bánh xe xào xạc.
Nước mắt rơi. Phấp phới mái tóc vàng…  

Ngoài ra giấc mơ không còn gì khác… 
Nhưng tôi sốc và xúc động vô cùng
Suốt cả ngày suy nghĩ, thấy run run
Về cô gái lạ kỳ chưa quên thơ Blok.
1927

Не более, чем сон

Мне удивительный вчера приснился сон:
Я ехал с девушкой, стихи читавшей Блока.
Лошадка тихо шла. Шуршало колесо.
И слёзы капали. И вился русый локон… 

И больше ничего мой сон не содержал… 
Но, потрясённый им, взволнованный глубоко,
Весь день я думаю, встревоженно дрожа,
О странной девушке, не позабывшей Блока.


Tranh "Quỉ ngồi" (Демон сидящий) Vrubel

BLOK

Đẹp như Quỉ ngồi*, dành cho phụ nữ
Anh trông giống như một con thiên nga
Lông trắng hơn cả bạc, cả mây kia
Thân hình giống như áo French, thật lạ.

Anh nhân từ với những gì rất nhỏ
Tinh tế nhìn ra trong cái ác lòng nhân.
Bay lên. Đổ xuống. Ý nghĩ lang thang
Yêu Tình yêu, Cái chết, chiều hai thứ. 

Anh kiếm tình trên đất cho uổng phí
Tình chẳng có ở đây. Khi nhe răng
Đến chết, hiểu ra: – Người đàn bà xa lạ… 

Trên thiên đường tiếng bước chân giòn giã
Blok đến. Mang theo những bài thơ
Trong chiếc túi thơ lãng du rạng rỡ… 
_____________
*Демон Врубеля nghĩa là bức tranh “Quỉ ngồi” (Демон сидящий) của họa sĩ Mikhail Vrubel (1856 – 1910); Áo French – là một loại áo khoác trong quân đội của Đế quốc Nga, sau đấy là Liên Xô lấy theo tên của một vị tướng Anh, John French (1852 – 1925), áo này được Chủ tịch Stalin và Chủ tịch Mao Trạch Đông thích mặc; Yêu Tình yêu – ý nói đến người vợ của Blok là Lyubov Mendeleeva.

Блок

Красив, как Демон Врубеля для женщин,
Он лебедем казался, чье перо
Белей, чем облако и серебро,
Чей стан дружил, как то ни странно, с френчем.

Благожелательный к меньшим и меньшим,
Дерзал — поэтно видеть в зле добро.
Взлетал. Срывался. В дебрях мысли брел.
Любил Любовь и Смерть, двумя увенчан.

Он тщетно на земле любви искал:
Ее здесь нет. Когда же свой оскал
Явила Смерть, он понял: — Незнакомка…

У рая слышен легкий хруст шагов:
Подходит Блок. С ним — от его стихов
Лучащаяся — странничья котомка…


THƠ TỪ BI

Hãy tỏ lòng thương với người bệnh tật
Bằng cả trái tim, bằng cả tấm lòng
Đừng coi người ấy như là người khác
Dù người ấy là xa lạ với anh.

Hãy để người ấy tìm đến với anh
Giống như con trẻ hướng về người mẹ
Hãy để trong con người anh, hãy để
Người bay về anh bằng cả trái tim.

Hãy gieo hy vọng cho điều vô vọng
Bỏ qua tất cả, tất cả yêu thương
Hãy thể hiện sự dịu dàng của mình
Để người hấp hối trở nên sống động.

Và anh sẽ thấy hân hoan vui sướng
Trên mặt đất vốn dĩ đã u sầu…
Hãy tỏ lòng thương với từng người bệnh
Sự cảm thông người ấy biết nghe theo.
1921

Поэза сострадания

Жалейте каждого больного
Всем сердцем, всей своей душой,
И не считайте за чужого,
Какой бы ни был он чужой.

Пусть к вам потянется калека,
Как к доброй матери — дитя;
Пусть в человеке человека
Увидит, сердцем к вам летя.

И, обнадежив безнадежность,
Все возлюбя и все простив,
Такую проявите нежность,
Чтоб умирающий стал жив!

И будет-радостна вам снова
Вся эта грустная земля…
Жалейте каждого больного,
Ему сочувственно внемля.

Thơ Boris Slutsky


Boris Abramovich Slutsky (tiếng Nga: Борис Абрамович Слуцкий, 7 tháng 5 năm 1919 - 22 tháng 2 năm 1986) là nhà thơ Nga Xô Viết.

Tiểu sử:
Boris Slutsky sinh ở Slovyansk, Donbass (nay là Ukraina) trong một gia đình công nhân. Từ năm 1937 đến 1941 học Đại học luật, đồng thời học trường viết văn Maxim Gorky. Thế chiến II xảy ra, ông ra trận, sau khi bị thương chuyển về làm việc ở tòa án binh. Ông sống ở Moskva, thuê nhà ở nhiều nơi, theo lời ông, thay đổi đến 22 địa chỉ. Đến đầu năm 1960 ông mới được cấp một phòng ở khu tập thể nằm trên Đại lộ Lomonosov. 

Năm 1957 in tập thơ đầu tiên. Ngoài sáng tác thơ ông còn đóng vai trong một số bộ phim và viết phê bình đăng trên các báo, tạp chí. Thơ của Slutsky chủ yếu viết về chiến tranh, là những suy ngẫm về số phận những con người cùng thế hệ, thơ ông gần gũi với ngôn ngữ đời thường. Một phần đáng kể thơ, văn của ông chỉ được in sau năm 1987.

T
ác phẩm:
*Память
 (1957).
*Время
 (1959), 
*Сегодня и вчера
 (1961), 
*Работа
 (1964), 
*Современные истории
 (1969),
*Годовая стрелка
 (1971), 
*Доброта дня
 (1973).




HẠNH PHÚC VÀ BẤT HẠNH
(Счастье - это круг)

Hạnh phúc là vòng tròn. Và người ta
Chầm chậm, như chiếc kim đồng hồ
Đ
i về điểm cuối, nghĩ là về xuất phát
Đ
i theo vòng tròn, nghĩa là về tuổi thơ
Về thuở đầu trọc lóc
Về thuở hoạt bát, ngày còn chưa đi học
Về vẻ vui tươi, lòng tốt, thậm chí dại khờ.

Còn bất hạnh - đấy là góc nhọn
Chiếc kim đồng hồ đứng yên!
Và kim phút - vội vàng khép kín
Dồn con người ta vào tường.

Thay vì bất hạnh hói đầu muộn màng
Con người chọn cho mình tóc bạc sớm
Và lặng lẽ, hý hoáy từng lỗ thủng
Một lỗ, hai lỗ giữa thắt lưng
Lỗ thứ ba thì hơi bất thình lình
Biết hết.
Bất hạnh - đó là tri thức.


Счастье 

Счастье - это круг. И человек
Медленно, как часовая стрелка,
Движется к концу, то есть к началу,
Движется по кругу, то есть в детство,
В розовую лысину младенца,
В резвую дошкольную проворность,
В доброту, веселость, даже глупость.

А несчастье - это острый угол.
Часовая стрелка - стоп на месте!
А минутная - спеши сомкнуться,
Загоняя человека в угол.

Вместо поздней лысины несчастье
Выбирает ранние седины
И тихонько ковыряет дырки
В поясе - одну, другую,
Третью, ничего не ожидая,
Зная все.
Несчастье - это знанье.



HÓA RA LÀ CHIẾN TRANH
(Оказывается, война)

Hóa ra là chiến tranh
Không phải kết thúc bằng thắng lợi.
Và trong những đêm của người goá phụ
Hết đêm lại đến đêm.

Chỉ người chiến thắng từng chiến thắng
Còn người góa phụ vẫn cô đơn
Và đêm đêm từ trong hàng nghìn
Một nầm mồ thổi cho nàng hơi lạnh.

Còn kẻ thua, xưa từng thua trận
Nhưng đã hết đau khổ vì thua
Đã
vực dậy từ đống đ nát xưa
Và đứng lên, trở thành người chiến thắng.

Bây giờ không còn ọp ẹp, bấp bênh
Mà công việc cứ tiến hành suôn sẻ
Chỉ có những người góa phụ
Chồng thứ hai không tìm thấy cho mình.


Оказывается, война

Оказывается, война
не завершается победой.
В ночах вдовы, солдатки бедной,
ночь напролет идет она.

Лишь победитель победил,
а овдовевшая вдовеет,
и в ночь ее морозно веет
одна из тысячи могил.

А побежденный побежден,
но отстрадал за пораженья,
восстановил он разрушенья,
и вновь - непобежденный он.

Теперь ни валко и ни шатко
идут вперед его дела.
Солдатская вдова, солдатка
второго мужа не нашла.



VỀ NGƯỜI DO THÁI

Người Do Thái lúa mì không gieo trồng
Người Do Thái trong cửa hàng buôn bán
Người Do Thái là những người hói sớm
Người Do Thái thường ăn cắp nhiều hơn.

Người Do Thái là những người xấu xa
Họ luôn luôn là những người lính dở
Khi Ivan chiến đấu trong chiến hào
Thì Abram chỉ lo buôn ngoài chợ. 

Những điều này nghe từ thời thơ bé
Cho đến khi tôi đã trở nên già
Nhưng dù đi đâu thì tôi vẫn nghe
Tiếng kêu: “Người Do Thái, Do Thái!”

Tôi chưa bao giờ đi buôn đâu cả
Chưa từng ăn cắp dù chỉ một lần
Tôi mang trong mình như con vi trùng
Cái tên gọi chủng tộc này nguyền rủa.

Những viên đạn đã không xuyên vào tôi
Để người nói câu không hề gian dối:
“Bom đạn đã tránh xa người Do Thái!
Và tất cả đều sống sót trở về!”

Про евреев

Евреи хлеба не сеют,
Евреи в лавках торгуют,
Евреи раньше лысеют,
Евреи больше воруют.

Евреи - люди лихие,
Они солдаты плохие:
Иван воюет в окопе,
Абрам торгует в рабкопе.

Я все это слышал с детства,
Скоро совсем постарею,
Но все никуда не деться
От крика: "Евреи, евреи!"

Не торговавши ни разу,
Не воровавши ни разу,
Ношу в себе, как заразу,
Проклятую эту расу.

Пуля меня миновала,
Чтоб говорили нелживо:
"Евреев не убивало!
Все воротились живы!"


TÔI TIN KHẨU HIỆU

Tôi tin tất cả khẩu hiệu đến cùng
Và tôi im lặng làm theo khẩu hiệu
Như người ta vì Chúa đi vào lửa
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần. 

Và nếu vách đá vỡ ra thành bụi
Và vực thẳm sẽ mở ra, lặng câm
Và nếu như từng có sự sai lầm –
Là tôi chấp nhận về mình tội lỗi.

Всем лозунгам я верил до конца

Всем лозунгам я верил до конца
И молчаливо следовал за ними,
Как шли в огонь во Сына, во Отца,
Во голубя Святого Духа имя. 

И если в прах рассыпалась скала,
И бездна разверзается, немая,
И ежели ошибочка была -
Вину и на себя я принимаю.