Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Tư, 8 tháng 2, 2017

Thơ Ivan Krylov


Ivan Andreyevich Krylov (tiếng Nga: Ива́н Андре́евич Крыло́в, 13 tháng 2 năm 1769 – 21 tháng 11 năm 1844) là nhà văn, nhà thơ Nga nổi tiếng với những câu chuyện ngụ ngôn. 

Tiểu sử: 
Ivan Krylov sinh Moskva, là con trai của một sĩ quan phục vụ trong quân đội. Krylov ít học nhưng đọc sách nhiều, được thừa hưởng một thư viện lớn của bố, là một người rất ham mê đọc sách. Lên 10 tuổi mồ côi bố, Krylov được nhà văn Nicolai Lvov đ đầu, được sống trong môi trường văn chương từ nhỏ. Năm 1872 cùng với mẹ đi lên Sankt-Peterburg làm lương hưu cho mẹ và xin việc làm. Thời gian này ông bắt đầu viết một vài vở kịch và bắt đầu làm thơ. Năm 1785 viết bi kịch Cleopatra (bản thảo sau này bị thất lạc) được nghệ sĩ nổi tiếng Dmitryevsky khen ngợi và khuyên nên tiếp tục sáng tác. Năm 1786 viết bi kịch Phelomela. Những tác phẩm này không mang lại cho Krylov tiền bạc hay danh tiếng nhưng cho phép ông nhập hội với những văn nghệ sĩ của Sankt-Peterburg. Cuối những năm 1880 ông tập trung vào lĩnh vực báo chí, thành lập tờ tạp chí Почта духов nhưng chỉ sau một thời gian phải đổi tên vì không có nhiều bạn đọc. Năm 1793 đổi tên thành Санкт-Петербургский Меркурий nhưng đến cuối năm này cũng ngừng hoạt động. Thời gian này Krylov đi về các tỉnh, sống với bạn bè rồi lên Moskva tiếp tục sáng tác. Năm 1805 ông in một số truyện ngụ ngôn và một số bản dịch ngụ ngôn của Jean de La Fontaine rồi quay sang viết kịch. Năm 1807 nhiều vở kịch của ông gây được sự thành công không ngờ nhưng chính vào thời điểm như vậy ông lại quay sang viết ngụ ngôn. 

Ivan Krylov trở thành một tác gia cổ điển khi còn sống. Năm 1835, nhà phê bình Belinsky trong bài Литературные мечтания (Những giấc mơ văn học) nêu tên bốn tác giả cổ điển, đặt Krylov bên cạnh Derzhavin, Pushkin và Griboedov. 

Ivan Krylov viết hơn 200 truyện ngụ ngôn trong khoảng thời gian từ năm 1809 đến năm 1843. Từng được in ra với số lượng lớn và được bạn đọc chào đón nồng nhiệt. Một số đ tài ngụ ngôn của ông ban đầu mô phỏng theo truyện ngụ ngôn của Aesop và Jean de La Fontaine nhưng về sau là sáng tác của ông. Ngày sinh nhật 50 tuổi của ông từng trở thành một ngày hội của quần chúng. Gần 200 năm nay có biết bao nhiêu thế hệ người Nga lớn lên qua những câu chuyện ngụ ngôn của Ivan Krylov. Ông mất năm 1844 Sankt-Peterburg. 




QUẠ KHOANG VÀ CÁO 
(Ворона и лисица)

Muôn đời nay vẫn nhắc đi nhắc lại trần gian 
Rằng ton hót là xấu xa, có hại; nhưng nếu không có ích 
Và kẻ nịnh thần luôn tìm ra một góc trong tim. 
__________________
 

Quạ khoang kiếm được một thanh phó mát 
Liền ì ạch bay lên ngọn cây thông 
Quạ chuẩn bị bữa ăn sáng cho mình 
Cặp mỏ quạ giữ gìn thanh phó mát. 
Nhưng thật không may, một con cáo đi qua 
Bỗng nhiên, mùi phó mát cáo nghe ra 
Cáo nhìn thanh phó mát thèm rõ dãi 
Cáo tinh ranh liền ghé sát gốc cây 
Vẫy đuôi, nhìn quạ không rời ánh mắt 
Rồi cất giọng, lời cáo rất ngọt nhạt: 
Chao ôi, chị mới đẹp làm sao! 
Cái cổ đẹp biết bao, và đôi mắt! 
Chị hãy kể một câu chuyện cổ tích 
Bộ lông tuyệt đẹp! Cái mũi tuyệt trần! 
Giọng của chị, tất nhiên, sẽ thiên thần! 
Chị hát lên nào, chị đừng xấu hổ 
Chị đẹp vậy hát sẽ hay vô cùng 
Vì trong loài chim, chị là bà Chúa!” 
Quạ khoang choáng váng vì những lời khen 
Qụa vui mừng và quạ dồn hơi thở 
Đ
đáp lại những lời khen của cáo 
Tiếng kêu quạ quạ vừa mới cất lên 
Phó mát rơikẻ tinh ranh dưới đó. 



SƯ TỬ VÀ CÁO
(Лев и Лисица)

Con cáo chưa bao giờ thấy sư tử
Thì hoảng sợ khi gặp nó lần đầu.
Thế rồi gặp lại một thời gian sau
Thì đã vơi đi nhiều nỗi sợ.
Và lần thứ ba chúng gặp nhau
Thì cáo trò chuyện cùng sư tử.
_____
Ta cũng thế, cũng sợ bao người khác
Nếu người này chưa bao giờ gặp mặt.


THƠ TRÀO PHÚNG 
(Эпиграмма рецензенту поэмы "Руслан и Людмила")

Ai vẫn nói rằng phê bình là nhẹ 
Tôi đọc phê bìnhRuslan và Lútmila”. 
Dù sức lực của tôi rất mạnh mẽ 
Nhưng với tôi, trường ca quá nặng nề!



Thơ Mikhail Kuzmin


Mikhail Alekseevich Kuzmin (tiếng Nga: Михаил Алексеевич Кузмин, 6 tháng 10 năm 1872 – 1 tháng 3 năm 1936) là nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ Nga thế kỷ bạc. 

Tiểu sử: 
Mikhail Kuzmin sinh Yaroslav trong một gia đình có gốc gác quí tộc. Lớn lên Saratov. Năm 1884 gia đình chuyển về Sankt-Peterburg, Kuzmin vào học trường gymnazy. Năm 1891 học xong gymnazy Kuzmin vào học tại Nhạc viện Sankt-Peterburg. Tốt nghiệp nhạc viện, Kuzmin sáng tác nhạc và biểu diễn đàn piano. Năm 1895, cùng với một người bạn đi du lịch sang Ý, Ai Cập, Hy Lạp. Năm 1901 in tập thơ История рыцаря д’Алессио, được nhà thơ Valery Bryusov mời làm cộng tác với tạp chí Весы và bắt đầu trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Tập thơ Александрийские песни in tạp chí Весы của ông làm cho nhà thơ, nhà phê bình M. Voloshin lấy làm ngạc nhiên vì vẻ kết hợp tài ba giữa đời sống của nước Nga đương thời với xã hội Hy Lạp cổ đại. Александрийские песни trở thành một tác phẩm cổ điển trong thế kỷ XX. 

Năm 1906 ông bắt đầu in một số truyện và kịch, đặc biệt, tác phẩm Крылья của ông viết về tình yêu của những người đồng tính luyến ái gây nên một vụ xì căng đan thực sự. Nhà văn Maxim Gorky gọi Kuzmin là “kẻ trơ trẽn”, còn nữ thi si Zinaida Gippus gọi ông là kẻ “lưu manh”. Những năm Thế chiến I ông đứng về phía cách mạng, tuy vậy, sau Cách mạng Tháng Mười ông viết rất ít và tự coi mình là nhà thơ không hợp thời. 

Ngoài thơ và văn xuôi, Kuzmin còn để lại nhiều tác phẩm kịch và phê bình. Ông mất ở Leningrad năm 1936. Một số tác phẩm của ông viết ở giai đoạn cuối bị thất lạc. 

T
ác phẩm: 
*Александрийские песни
 (1905-1908) 
*Приключения Эме Лебефа
 (1907) 
*Повесть об Елевсиппе, рассказанная им самим
 (1906) 
*Из писем девицы Клары Вальмон к Розалии Тютельмайер
 (1907) 
*Возвращение Одиссея
 (1911) 
*Параболы. Стихотворения.
 1921-1922 (1923) 
*Форель разбивает лед. Стихи
 1925-1928 (1929) 

Về Mikhail Kuzmin: 
*Михаил Кузмин и русская культура
XX века. Тезисы и материалы конференции 15-17 мая 1990 г. Сост. и ред. Г. А. Морева. Л., 1990. 
*Богомолов Н. А.
 Михаил Кузмин: Статьи и материалы. М., 1995. 
*Богомолов Н. А., Малмстад Джон Э.
 Михаил Кузмин: искусство, жизнь, эпоха. М., 1996. 
*Malmstad John E., Bogomolov Nikolay. Mikhail Kuzmin. A Life in Art. Cambridge, Massachusetts, London, England: Harvard University Press, 1999. 
*Панова Л. Г. Русский Египет. Александрийская поэтика Михаила Кузмина. М., 2006 . 




NIỀM VUI TÌNH YÊU CHỈ TRONG PHÚT CHỐC

Plaisir d'amour ne dure qu'un moment. 
Chagrin d'amour dure toute la vie*.
 

Niềm vui tình yêu chỉ trong phút chốc 
Nỗi buồn tình yêu theo suốt cuộc đời. 
Tôi đã từng hạnh phúc với người yêu 
Từng khát khao uống chén tình mỏi mệt! 

Và chúng tôi đã từng gom trái ngọt 
Của một cuộc tình đằm thắm qua mau 
Dòng thời gian điên cuồng và đói khát 
Xóa hết rồi dấu vết của tình yêu. 

Trên đồng cỏ, nơi ngày xưa đùa chơi 
Những giọt sương làm cho nghiêng hoa cỏ 
Vương miện tình yêu, than ôi! Gục đổ 
Người yêu tôi không còn nữa trên đời. 

Nhưng rất lâu, sau cơn nóng rã rời 
Trong mê sảng, tôi gọi bằng tên khác 
Niềm vui tình yêu chỉ trong phút chốc 
Nỗi buồn tình yêu theo suốt cuộc đời. 


Любви утехи

К рассказу С. Ауслендера
"Вечер у г-на де Севираж"

Plaisir d'amour ne dure qu'un moment.
Chagrin d'amour dure toute la vie.*

Любви утехи длятся миг единый,
Любви страданья длятся долгий век.
Как счастлив был я с милою Надиной,
Как жадно пил я кубок томных нег!

Но ах! недолго той любови нежной
Мы собирали сладкие плоды:
Поток времен, несытый и мятежный,
Смыл на песке любимые следы.

На том лужке, где вместе мы резвились,
Коса скосила мягкую траву;
Венки любви, увы! они развились,
Надины я не вижу наяву.

Но долго после в томном жаре нег
Других красавиц звал в бреду Надиной.
Любви страданья длятся долгий век,
Любви утехи длятся миг единый.
____________
* Наслаждение любви длится лишь мгновенье,
Тоска любви длится всю жизнь (фр.).


NGƯỜI YÊU PHỤ BẠC 

Bị người yêu phụ bạc – hạnh phúc ghê! 
Thấy ánh sáng chói lòa trong quá khứ 
Mùa đông u ám đến sau mùa hè 
Nhớ mặt trời, dù đã không còn nữa. 

Bông hoa khô và những bức thư tình 
Ánh mắt cười, gặp gỡ đầy hạnh phúc 
Dù bây giờ trên con đường tối đen 
Nhưng mùa xuân ta lang thang trên đất. 

Để hạnh phúc, có một bài học khác 
Con đường khác – hoang vắng và thênh thang 
Kẻ bị phụ tình – thật là hạnh phúc! 
Làm kẻ không yêu – cay đắng vô cùng. 



О, быть покинутым - какое счастье!

О, быть покинутым - какое счастье!
Какой безмерный в прошлом виден свет
Так после лета - зимнее ненастье:
Все помнишь солнце, хоть его уж нет.

Сухой цветок, любовных писем связка,
Улыбка глаз, счастливых встречи две,-
Пускай теперь в пути темно и вязко,
Но ты весной бродил по мураве.

Ах, есть другой урок для сладострастья,
Иной есть путь - пустынен и широк.
О, быть покинутым - такое счастье!
Быть нелюбимым - вот горчайший рок.


TÔI NÓI MÀ KHÔNG YÊU 


“Anh yêu em”, tôi nói mà không yêu 
Và bỗng nhiên thần tình yêu bay đến 
Nắm tay tôi, như một người hướng dẫn 
Tôi theo thần và đi đến với em. 

Đôi mắt sáng, không còn vẻ mơ màng 
Của tình yêu đã quên trong quá khứ 
Thần bất ngờ dẫn tôi ra đồng cỏ 
Ánh sang đầy và có những giọt sương. 

Điều dối gian buổi sáng rất dị thường 
Tôi nhìn thấy lạ lùng và sáng tỏ 
Một vẻ rất dịu dàng màu thắm đỏ 
Ánh hồng lên một hình bóng lung linh. 

Và tôi nhìn thấy miệng hơi hé mở 
Tôi nhìn ra đôi má đỏ thẹn thùng 
Thấy ánh mắt hãy còn rất mơ màng 
Và chiếc cổ cao nhẹ nhàng xoay trở. 

Suối rì rầm cùng tôi giấc mơ đẹp 
Tôi uống luồng sinh khí rất thèm thuồng 
Và tôi lại yêu trong lần đầu tiên 
Tôi lại yêu đến muôn đời muôn kiếp.


Люблю", сказал я не любя

"Люблю", сказал я не любя -
Вдруг прилетел Амур крылатый
И, руку взявши, как вожатый,
Меня повлек вослед тебя.

С прозревших глаз сметая сон
Любви минувшей и забытой,
На светлый луг, росой омытый,
Меня нежданно вывел он.

Чудесен утренний обман:
Я вижу странно, прозревая,
Как алость нежно-заревая
Румянит смутно зыбкий стан;

Я вижу чуть открытый рот,
Я вижу краску щек стыдливых
И взгляд очей еще сонливых
И шеи тонкой поворот.

Ручей журчит мне новый сон,
Я жадно пью струи живые -
И снова я люблю впервые,
Навеки снова я влюблен!