Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2017

Thơ Irina Odoyetseva


Irina Vladimirovna Odoyetseva (ирина владимировна одоевцева, tên thật là Iraida Gustanovna Heinike, tiếng Nga: Ираида Густавовна Гейнике. Tiếng Latvia: Iraīda Heinike) (2 tháng 11 năm 1895 – 14 tháng 10 năm 1990) – là nữ nhà văn, nhà thơ Nga.

Tiểu sử:
Người đẹp Irina Odoyetseva sinh ra trong gia đình một luật sư ở Riga. Là thành viên của “Xưởng thơ” (Цех поэтов), học trò của nhà thơ nổi tiếng Nicolai Gumilyov. Irina Odoyetseva làm cho mọi người gặp cô đều yêu mến và cảm phục tài thơ, kể cả Nicolai Gumilyov. Từ nhỏ đã viết những bài thơ xuất sắc. 

Năm 1922 Irina Odoyetseva cùng chồng ra sống ở nước ngoài, phần lớn cuộc đời bà sống ở Paris. Thời gian này bà ít làm thơ mà chủ yếu là viết tiểu thuyết: "Ангел смерти" (1927), "Изольда" (1931), "Зеркало" (1939), "Оставь надежду навсегда" (1949). Sau chiến tranh bà trở lại làm thơ và viết nhiều hồi kí. Từng là thành viên của nhiều nhóm văn chương khác nhau, Irina Odoyetseva quen biết với nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Nicolai Gumilyov, Osip Mandelstam, Andrei Bely, Zinaida Gippus, Ivan Bunin và nhiều người khác.

Năm 1987 bà quay trở về sống ở nước Nga. Bà mất ngày 14 tháng 10 năm 1990 ở Leningrad.

Tác phẩm:
• Двор чудес, thơ 1920–1921, Изд. Мысль, Петроград, 1922
• Ангел смерти 1927, tiểu thuyết
• Изольда 1931, tiểu thuyết
• Зеркало 1939, tiểu thuyết
• Оставь надежду навсегда 1954, tiểu thuyết
• Год жизни 1957, tiểu thuyết
• На берегах Невы 1967, hồi kí
• На берегах Сены 1983, hồi kí
• На берегах Леты - hồi kí viết dở

Một số bài thơ


BÀI BALLAD VỀ GUMILYOV

Trên đường phố Preobrazhen vắng ngắt
Ngọn gió tru và tuyết xoáy giữa trời
Tôi gõ cửa nhà thơ Gumilyov
Và nhà thơ ra mở cửa cho tôi.

Một bếp lò cháy trong phòng làm việc
Phía đằng sau cửa sổ thấy đen trời.
Nhà thơ bảo: “ Em viết bài ballad
Về tôi và về cuộc sống của tôi!

Đấy quả thực là đề tài rất tuyệt”
Nhưng mà tôi liền đáp: “Không bao giờ
Làm sao em viết được bài ballad?
Anh đâu phải anh hùng, chỉ nhà thơ”.

Ánh phản chiếu phân kì từ lò sưởi
Chiếu ánh hồng lên gương mặt nhà thơ.
Đấy là trong một buổi chiều sương khói
Trước đêm Giáng sinh ở Pê-téc-bua…

Giờ tôi thường xuyên nhớ đến nhà thơ
Cứ môi ngày nỗi buồn thêm tràn ngập.
Và bây giờ tôi viết bài ballad
Về nhà thơ và để tặng nhà thơ.

Gumilyov từng khao khát Bôxpho
Và tới châu Phi, vương quốc kì lạ
Nghĩ về những anh hùng trong quá khứ
Dưới lều căng rộng mở của bầu trời.

Những ngôi sao từng rơi xuống, cắt ngang
Bằng một sợi chỉ mỏng manh của lửa
Và với mỗi ngôi sao anh từng nói:
“Sao hãy biến ta thành một anh hùng!”

Từng sống ở châu Phi hàng nửa năm
Tựa hồ như người sống trong địa ngục
Từng săn sư tử, và Gumilyov
Từng đánh nhau với những thú rừng.

Từng gặp cái chết không chỉ một lần
Dưới “bầu trời khác” và trên sa mạc
Khi nhà thơ trở về nhà, gặp mặt
Những bạn bè đã an ủi anh rằng:

“Ái chà, châu Phi! Quả là kì lạ
Lửa trại và những cô gái da đen
Những con hà mã là bạn của anh
Những hươu cao cổ vô cùng tao nhã”.

Mặc áo đuôi tôm, một chút nghi ngờ
Anh bước ra giữa gian phòng sáng tỏ
Cúi xuống hôn một bàn tay phụ nữ
Một quí bà mặc váy kiểu Pa-ri.

“Tôi viết tặng em cả một trường ca
Về dòng sông Nin cho em tôi kể
Và tôi sẽ tặng cho em da hổ
Cọp gấm này tôi giết ở châu Phi”.

Chiếc quạt màu hồng lúc lắc đung đưa
Nàng có vẻ không thích Gumilyov
“Em không yêu thơ. Thì em đâu biết
Bộ lông thú kia dùng để làm gì”…

Trong ngày kẻ thù tuyên bố chiến tranh
Gumilyov lên đường đi chiến đấu
Ra trận, bỏ lại Hoàng thôn yêu dấu
Mẹ, đứa con trai cùng với vợ hiền.

Gan dạ nhất trong những người gan dạ
Và có lẽ chăng, vì chính điều này
Mà đạn bom thù cảm thấy thương thay
Không chạm đến người anh hùng như thế.

Nhưng những bạn bè luôn nhìn hằn học
Vào cây thập ác Georgy*
“Tặng Gumilyov? Lố bịch nhường kia!”
Sự mỉa mai làm miệng cười méo xệch.

Những người lính cùng đại đội kị binh
Những huân chương thế này đâu có được
Nghe nói anh kết bạn cùng với sếp
Qua rượu chè mà gạ gẫm cho mình.

Không lâu trước ngày từ giã trần gian
Anh rất tin tưởng nói rằng: “Chính xác
Trong tình yêu, chiến tranh, trong bài bạc
Tôi sẽ là người hạnh phúc thường xuyên!...

Không trên biển cả, chẳng trên đất liền
Đối với tôi – không có gì nguy hiểm…”
Và anh đã từng là người bất hạnh
Như mọi nhà thơ sống ở trần gian.

Sau đó người ta trói anh vào tường
Và xử bắn anh liền ngay sau đó**
Cho đến bây giờ ở trên phần mộ
Cả gò đất lẫn thập ác đều không.

Nhưng những thiên thần vẫn từng yêu anh
Bằng cả tấm lòng tìm anh bay đến
Và những ngôi sao giữa trời lên tiếng:
“Vinh quang cho ngươi, cho một anh hùng!

== == == == ==
Huân chương Thập ác Georgy (croix de Saint-Georges) của Đế chế Nga dùng để tặng cho sĩ quan và những người lình có thành tích xuất sắc trong chiến đấu.
**Gumilyov bị bắt vì bị nghi ngờ tham gia vào “Tổ chức vũ trang Tagantsev” và bị xử bắn cùng với 60 người khác.


Баллада о Гумилеве

На пустынной Преображенской
Снег кружился и ветер выл...
К Гумилеву я постучала,
Гумилев мне дверь отворил.

В кабинете топилась печка,
За окном становилось темней.
Он сказал: "Напишите балладу
Обо мне и жизни моей!

Это, право, прекрасная тема",-
Но я ему ответила: "Нет.
Как о Вас напишешь балладу?
Ведь вы не герой, а поэт".

Разноглазое отсветом печки
Осветилось лицо его.
Это было в вечер туманный,
В Петербурге на Рождество...

Я о нем вспоминаю все чаще,
Все печальнее с каждым днем.
И теперь я пишу балладу
Для него и о нем.

Плыл Гумилев по Босфору
В Африку, страну чудес,
Думал о древних героях
Под широким шатром небес.

Обрываясь, падали звезды
Тонкой нитью огня.
И каждой звезде говорил он:
- "Сделай героем меня!"

Словно в аду полгода
В Африке жил Гумилев,
Сражался он с дикарями,
Охотился на львов.

Встречался не раз он со смертью,
В пустыне под "небом чужим".
Когда он домой возвратился,
Друзья потешались над ним:

- "Ах, Африка! Как экзотично!
Костры, негритянки, там-там,
Изысканные жирафы,
И друг ваш гиппопотам".

Во фраке, немного смущенный,
Вошел он в сияющий зал
И даме в парижском платье
Руку поцеловал.

"Я вам посвящу поэму,
Я вам расскажу про Нил,
Я вам подарю леопарда,
Которого сам убил".

Колыхался розовый веер,
Гумилев не нравился ей.
- "Я стихов не люблю. На что мне
Шкуры диких зверей",..

Когда войну объявили,
Гумилев ушел воевать.
Ушел и оставил в Царском
Сына, жену и мать.

Средь храбрых он был храбрейший,
И, может быть, оттого
Вражеские снаряды
И пули щадили его.

Но приятели косо смотрели
На георгиевские кресты:
- "Гумилеву их дать? Умора!"
И усмешка кривила рты.

Солдатские - по эскадрону
Кресты такие не в счет.
Известно, он дружбу с начальством
По пьяному делу ведет.

Раз, незадолго до смерти,
Сказал он уверенно: "Да.
В любви, на войне и в картах
Я буду счастлив всегда!..

Ни на море, ни на суше
Для меня опасности нет..."
И был он очень несчастен,
Как несчастен каждый поэт.

Потом поставили к стенке
И расстреляли его.
И нет на его могиле
Ни креста, ни холма - ничего.

Но любимые им серафимы
За его прилетели душой.
И звезды в небе пели: -
"Слава тебе, герой!"



TÔI KHÔNG LÀ NGƯỜI NỔI TIẾNG

Không, tôi sẽ không là người nổi tiếng
Tôi sẽ không đạt đến vinh quang.
Giống như chức trưởng tu viện
Là thứ tôi chẳng dám màng.

Cả Gumilyov hay báo chí
Không gọi tôi là tài năng
Tôi chỉ là nữ nhà thơ nhỏ bé
Với chiếc nơ thắt khiêm nhường.


Нет, я не буду знаменита

Нет, я не буду знаменита.
Меня не увенчает слава.
Я - как на сан архимандрита
На это не имею права.

Ни Гумилев, ни злая пресса
Не назовут меня талантом.
Я - маленькая поэтесса
С огромным бантом.


NGÀY HÔM NAY TÔI VUI

Ngày hôm nay tôi vui từ sáng sớm
Rặng trúc đào cười với tôi trong gương
Bên cửa sổ rặng trúc đào cúi xuống.
Thế giới này quả tuyệt đẹp… Nhưng

Nếu như không có trên đời những chiếc gương
Thì thế giới này vô cùng tẻ nhạt

Nếu thơ không tồn tại ở trần gian
Thì sẽ nhiều hơn: lỗi lầm, nước mắt

Và có lẽ tôi sẽ buồn bã hơn
Cả bệnh đau dây thần kinh ngày tháng
Và trò mèo chuột loăng quăng tán loạn
Nếu như tôi không có mặt trên trần.


Я сегодня с утра весела

Я сегодня с утра весела,
Улыбаются мне зеркала,
Олеандры кивают в окно.
Этот мир восхитителен... Но

Если-б не было в мире зеркал,
Мир на много скучнее бы стал.

Если-б не было в мире стихов,
Больше было бы слез и грехов

И была бы, пожалуй, грустней
Невралгических этих дней
Кошки-мышкина беготня -
Если б не было в мире меня.

Thơ Aleksandr Yashin


Aleksandr Yakovlevich Yashin (họ thật là Popov) (14/3/1913 – 11/7/1968) là nhà thơ, nhà văn Nga.

Tiểu sử:
Aleksandr Yashin sinh ở làng Bludnovo, tỉnh Vologda trong một gia đình nông dân. Năm 1931 học xong trường trung cấp sư phạm đi dạy học ở làng quê. Bắt đầu in thơ từ năm 1928. Tập thơ đầu tay Песни Северу (Những bài ca gửi miền bắc) in năm 1934. Từ năm 1935 ông sống ở Moskva. Năm 1941 tốt nghiệp trường viết văn mang tên Gorky. Trong những năm thế chiến II Aleksandr Yashin tình nguyện ra mặt trận làm cán bộ chính trị và làm báo. Ông tham gia chiến đấu bảo vệ Leningrad, Stalingrad và giải phóng Crime.

Sau chiến tranh ông đi về phương bắc, về miền Altai, về các công trình xây dựng nhà máy thủy điện và sau đấy là các vùng đất khai hoang, phản ánh cuộc sống xây dựng đất nước sau chiến tranh. Ông được tặng huân chương Sao đỏ và nhiều huân huy chương của nhà nước Xô Viết. Ông mất ở Moskva ngày 11 tháng 6 năm 1968.

Tác phẩm:

Thơ:
*«Песни Северу» (1934)
*«Свежий хлеб» (1957)
*«Совесть» (1961)
*«Босиком по земле» (1965)
*«День творенья» (1968)
Trường ca
*«Город гнева» (1943)
*«Алёна Фомина» (1949)

Văn xuôi:
*«Рычаги» (1956)
*«Вологодская свадьба» (1962)
*«Сирота» (1962)
*«Угощаю рябиной» (1965)


NẾU MÀ EM BỊ NGÃ XUỐNG SÔNG

Nếu mà em bị ngã xuống sông
Thì anh xuống tìm tận đáy
Trước sóng biển chẳng kinh hoàng
Hay bóng tối hoàng hôn cũng vậy.

Dù thú dữ mang em vào rừng
Hay giấu em trong hang gấu
Thì anh vẫn tìm ra con đường
Dù từ muôn vạn nẻo.

Và anh sẽ tìm ra con đường
Đến con rắn mười đầu hung dữ
Và anh vẫn sẽ cứu được em
Dù trong tay Kaschei* đáng sợ…

Nhưng em không ngã xuống sông
Nước sông không hề có lỗi
Mà em ngã vào tim anh
Thì anh – chứ em đâu ngại.

Dù sông có sâu hay không
Con tim này không đủ sức
Và từ đáy này muôn kiếp
Anh không thể tìm được em.
________
*Kaschei – biểu tượng của sức mạnh hung dữ và khắc nghiệt trong văn học dân gian Nga.

Если б ты в реку упала

Если б ты в реку упала,
Я бы достал до дна,
Мне и морского вала
Сутемень не страшна.

Если б в тайгу, в берлогу
Зверь тебя уволок,
Я бы нашел дорогу
Даже из ста дорог.

К девятиглавому змею
Я бы просек пути,
Даже из рук Кащея
Смог бы тебя спасти...

В реку ты не упала —
Тут ни при чем вода:
В сердце ты мне запала.
Мне — не тебе беда.

И глубоки ли реки,
Сердце не им под стать
С этого дна вовеки
Мне тебя не достать.



CHUYỆN NHƯ THẾ

Chuyện như thế em tha thứ đã từng
Và em từng biết cách yêu như thế
Và em đã biết quên đi rất dễ
Điều mà người ta không thể nào quên.

Em bước đi với thanh thản nhẹ nhàng
Với siêu thoát vào bần cùng, thiều thốn
Và với vẻ con người Nga nhẫn nhịn
Thập ác của người phụ nữ em mang.

Em từng hiểu bằng tất cả tấm lòng
Nỗi đau của người và điều tai họa
Và lẽ tất nhiên là em từng ở
Trong buồn vui: địa ngục lẫn thiên đàng.

Không than van mà cũng chẳng thở dài
Chỉ mong sao trong nhà mình hạnh phúc
Em biện hộ ngay cả dù cái chết
Và em bỏ qua tất cả cho người.

Chỉ không chịu được giả dối mà thôi
Không một điều gì dối gian chịu được
Và tha thứ nó em không biết cách
Không thể hiểu ra gian dối trên đời.
1959


Ты такое прощала

Ты такое прощала,
Так умела любить,
Так легко забывала,
Что другим не забыть;

На такие лишенья
С отрешенностью шла,
С чисто русским терпеньем
Крест свой бабий несла;

Так душой понимала
Боль его и беду,
Что, конечно, бывала
И в раю и в аду;

И ни вздохов, ни жалоб —
Было б счастье в дому:
Даже смерть оправдала б
И простила б ему.

Только лжи не стерпела,
Лжи одной не снесла,
Оправдать не сумела
И понять не смогла.



VỀ TÌNH YÊU ĐƠN PHƯONG

Thà tình không lời đáp
Chỉ mong được yêu thương
Mong sao trên thế gian
Ta vẫn còn dấu vết.

Hoa cỏ mùi thuốc sắc
Sẽ ngửi trong lều tranh
Chỉ mong sao trong lòng
Không có giờ chết ngắt.

Bằng đất hay bằng trời
Theo người ta yêu quí -
Nghĩa là ta mua vé
Để đi về tương lai.

Dù sống trong hắt hủi
Nhưng giây phút bất kỳ
Từ dưới chân hiện ra
Theo tiếng kêu tình ái.

Số phận người cô đơn
Không có gì đau khổ
Nếu biển là biển cả
Và đất toả mùi hương. 

Ta sẽ sống như chim
Và hát, như dòng suối
Chỉ mong cho còn lại
Những đêm cứ chong đèn.

Dù tình yêu đơn phương
Dù tình không đáp lại
Sẽ bằng cách nào đấy
Với gánh nặng hoà mình.

Chẳng than thân trách phận
Miễn là được yêu thương.
Hãy trao tình đơn phương
Cho cái người đáng nhận.

Nhưng mà ai sẵn lòng
Để leo vào đống lửa?
Vẫn còn có thời gian
Để mà xem xét nữa.
1962-1964


О безответной любви

Пусть — безответно,
Только бы любить,
Только б не бесследно
По земле ходить.

Трав густым настоем
Дышать в шалаше,
Только бы простоев
Не знать душе.

Небом или сушей
За любимой вслед —
То же, что в грядущее
Взять билет.

Скрытно жить, в немилости.
Но в любой миг
Из-под ног вырасти
На ее вскрик.

Для меня не горе
Судьба бобыля,
Пахло б морем — море,
И землей — земля.

Буду жить, как птица,
Петь, как ручей.
Только б не лишиться
Бессонных ночей.

Пусть безответная,
Пусть, пусть!
Как-нибудь и с этою
Ношей примирюсь.

Ни на что не сетую,
Только бы любить.
Давай безответную —
Так тому и быть.

Впрочем, что ж охотно
На костер лезть?
Мы еще посмотрим,
Время есть!

Thơ Georgi Adamovich


Georgi Victorovich Adamovich (tiếng Nga: Гео́ргий Ви́кторович Адамо́вич) (7-4/1892 – 21-2/1972) là nhà thơ, nhà phê bình, dịch giả.

Tiểu sử:
Georgi Adamovich sinh ra trong gia đình một sĩ quan quân đội, học khoa lịch sử - ngôn ngữ Đại học Saint Petersburg. Năm 1914 bắt đầu làm quen với những nhà thơ phái Đỉnh cao và sau đó tham gia „Xưởng thơ” (Цех поэтов). Là một trong số những học trò của Nikolai Gumilyov. Quyển thơ đầu tiên của Adamovich, Những đám mây (Облака,1916) được Gumilyov đánh giá cao. 

Sau cách mạng Tháng Mười, cũng giống như nhiều nhà thơ khác cùng phái Đỉnh cao, Adamovich tập trung cho dịch thuật. Ông dịch các nhà thơ, nhà văn Pháp: Voltaire, Baudelaire, Heredia, dịch các nhà thơ Anh : Thomas Moore, Byron. Năm 1923 ông ra sống ở nước ngoài, đầu tiên sang Berlin, sau đó sang Pháp. Thời kỳ này ông dịch Jean Cocteau, Saint – John Perse và Albert Camus. Năm 1934 ông làm biên tập của tạp chí Gặp gỡ (Встречи) và thành lập nhóm thơ Nốt nhạc Paris (Парижская нота). 

Tháng 9 năm 1939 ông gia nhập quân đội Pháp, tham gia phong trào kháng chiến chống phát xít. Năm 1947 ông viết cuốn Một quê hương khác (Другая родина) thể hiện sự ủng hộ Stalin và chính quyền Xô Viết bị coi là sự phản bội đối với những văn nghệ sĩ sống ở nước ngoài. Năm 1967 ông xuất bản cuốn Phê bình (Комментарии) tập hợp nhiều bài phê bình được đánh giá cao. Quyển thơ thứ hai của ông Ở phương Tây (На Западе) in vào năm 1939. Quyển thơ cuối cùng Thống nhất (Единство) in năm 1967 tại Mỹ. Georgi Adamovich mất ngày 21 tháng 2 tại Nice, Pháp.

Tác phẩm:

Thơ:
Những đám mây (Облака,1916) 
Tĩnh ngục (Чистилище, 1922)
Ở phương Tây (На Западе, 1939)
Thống nhất (Единство, 1967)

Phê bình:
Một quê hương khác (Другая родина, 1947) 
Sự cô đơn và tự do (Одиночество и свобода, 1955)
Về những cuốn sách và tác giả (О книгах и авторах, 1966)
Phê bình (Комментарии, 1967)

Một số bài thơ


TƯỞNG NHỚ MARINA TSVETAEVA

Ta hãy trò chuyện, dù bây giờ, Marina
Khi sống thì không cần. Giờ chị không còn nữa.
Nhưng mà tôi vẫn nghe giọng thiên nga
Như người báo tin mừng, người đưa tin tai họa.

Khi sống thì không cần. Tôi không buộc tội.
Văn chương là đi vào địa ngục thôi mà
Cửa đi vào – mừng vui không giấu nổi
Nhưng chẳng một ai tìm thấy đường ra.

Tôi không có lỗi. Đời đớn đau nhiều thế.
Và tôi cũng không trách chị điều gì.
Tất cả đều ngẫu nhiên, tất cả đều nô lệ
Sống thật diệu kỳ. Ta sống chẳng ra chi.


Памяти М. Ц.

Поговорить бы хоть теперь, Марина!
При жизни не пришлось. Теперь вас нет.
Но слышится мне голос лебединый,
Как вестник торжества и вестник бед.

При жизни не пришлось. Не я виною.
Литература - приглашенье в ад,
Куда я радостно входил, не скрою,
Откуда никому - путей назад.

Не я виной. Как много в мире боли.
Но ведь и вас я не виню ни в чём.
Всё - по случайности, всё - поневоле.
Как чудно жить. Как плохо мы живём.


THÔI TRÒ CHUYỆN

Thôi trò chuyện và bỏ uống rượu vang
Bỏ lại ngôi nhà, bỏ lại vợ con
Bỏ bạn bè. Linh hồn anh phải hiểu
Rằng không quay lại nữa - cái đã từng.

Thôi yêu quá khứ. Và rồi sau đó
Đến một ngày thôi yêu cả thiên nhiên
Ngày lại ngày hờ hững cùng tất cả
Tuần lại tuần và năm lại theo năm.

Và ngay lập tức sẽ chết những ước mơ
Bóng tối khắp nơi. Và trong đời mới
Khi đó anh sẽ rõ ràng nhìn thấy
Thập ác gỗ và một chiếc mũ gai.


Ни с кем не говори. Не пей вина.

Ни с кем не говори. Не пей вина.
Оставь свой дом. Оставь жену и брата.
Оставь людей. Твоя душа должна
Почувствовать — к былому нет возврата.

Былое надо разлюбить. Потом
Настанет время разлюбить природу,
И быть все безразличней, — день за днем,
Неделю за неделей, год от году.

И медленно умрут твои мечты.
И будет тьма кругом. И в жизни новой
Отчетливо тогда увидишь ты
Крест деревянный и венок терновый.


NGƯỜI TA CẦU XIN…

Người ta cầu xin sự bố thí của em
Người ta nghèo – chìa bàn tay ra đó
Em hãy đáp lại nỗi lòng đau khổ
Bằng nụ cười, bằng ánh mắt, lặng im.

Vả lại, khổ đau vẫn có hân hoan
Em không hiểu. Sự hân hoan chịu nhục
Những đêm không ngủ, có trời biết được
Sung sướng buổi mai, tha thứ gì chăng.


Он милостыни просит у тебя

Он милостыни просит у тебя,
Он - нищий, он протягивает руку.
Улыбкой, взглядом, молча, не любя
Ответь хоть чем-нибудь на эту муку.

А впрочем, в муке и блаженство есть.
Ты не поймёшь. Блаженство униженья,
Слов сгоряча, ночей без сна, бог весть
Чего… Блаженство утра и прощенья.



MỘT NGƯỜI NÓI… 

Một người nói: “Quá ít cuộc đời này”
Một người kia: “Mục tiêu không đạt tới”
Còn phụ nữ, theo thói quen, mệt mỏi
Không hề nghe mà chỉ biết đưa nôi.

Và những sợi dây cứ kêu như vậy
Rồi lặng im – mỗi lần dịu dàng hơn!
Như thiên thần đang hát giữa trời xanh
Và nói về tình yêu cùng cô ấy.

Один сказал: "Нам этой жизни мало"

Один сказал: "Нам этой жизни мало",
Другой сказал: "Недостижима цель",
А женщина привычно и устало,
Не слушая, качала колыбель.

И стертые веревки так скрипели,
Так умолкали - каждый раз нежнее! -
Как будто ангелы ей с неба пели
И о любви беседовали с ней.


XIN CÁM ƠN TẤT CẢ

Xin cám ở tất cả. Vì chiến tranh
Vì cách mạng, vì lưu đày, bỏ chạy.
Vì sự hững hờ – về nơi sáng chói
Giờ vất vơ với cuộc sống bần hàn.

Không số kiếp nào ngọt ngào hơn – mất tất cả
Không số phận nào vui hơn – thành kẻ lang thang
Và không bao giờ bạn gần với trời xanh
Bằng ở nơi này, mệt mỏi vì buồn nhớ
Mệt mỏi để thở
Không sức lực, không tiền
Không tình yêu, ở Pa-ri… vậy đó.

За все, за все спасибо. За войну

За все, за все спасибо. За войну,
За революцию и за изгнанье.
За равнодушно - светлую страну,
Где мы теперь "влачим существованье".

Нет доли сладостней - все потеря
Нет радостней судьбы - скитальцем стать,
И никогда ты к небу не был ближе,
Чем здесь, устав скучать,
Устав дышать,
Без сил, без денег,
Без любви, в Париже...



ĐỨC CHÚA TRỜI HỨA BAN…

Chúa Trời hứa ban hạnh phúc cho chúng mình
Đến muôn đời, anh và em! Câu trả lời đáp lại
Nhưng niềm hy vọng và đam mê đang chết đấy.
Thì chẳng Chúa Trời, chẳng hạnh phúc, vĩnh hằng.

Mà chỉ có đám mây lơ lửng giữa không trung
Những vách đá hoang vu và tảng băng tỏa sáng
Những thứ không tên… chẳng khổ đau, buồn chán…
Sẽ cùng với ta trong giờ phút lâm chung.

Навеки блаженство нам Бог обещает!

Навеки блаженство нам Бог обещает!
Навек, я с тобою! – несется в ответ.
Но гибнет надежда. И страсть умирает.
Ни Бога, ни счастья, ни вечности нет.

А есть облака на высоком просторе,
Пустынные скалы, сияющий лед,
И то без названья… ни скука, ни горе…
Что с нами до самого гроба дойдет.


VÌ MỘT LỜI

Vì một lời, một lúc nào đấy nhớ
Và sau đó quên hẳn đến muôn đời
Vì tất cả trong hoàng hôn cháy đỏ
Bạn từng đi tìm mà chẳng tìm ra.

Vì sự vô vọng của những ước mơ
Và cái lạnh lớn dần lên trong ngực
Và vì cái sự đang dần dần chết
Không hy vọng ở phía trước bây giờ.

Vì cái tên màu trắng của cứu rỗi
Và vì cái tên màu đen của tình
Tất cả lỗi lầm đều được tha thứ
Cả những gì là tội ác của anh. 

За слово, что помнил когда-то

За слово, что помнил когда-то,
И после навеки забыл,
За всё, что в сгораньях заката
Искал ты и не находил.

И за безысходность мечтанья,
И холод растущий в груди,
И медленное умиранье
Без всяких надежд впереди,

За белое имя спасенья,
За тёмное имя любви
Прощаются все прегрешенья
И все преступленья твои.


CHỈ MỘT THỨ TÔI YÊU

Chỉ một thứ tôi yêu – là giấc mộng
Thật ngọt ngào và yên lặng vô cùng!
Chỉ hơi nghe ra tiếng của cây chuông
Một màu xanh và màn sương bất động…

Ôi, giá như ta biết được rằng chắc chắn
Rằng đời chỉ một, không có lần hai
Rằng trong vĩnh hằng ta ngủ muôn đời
Rằng không bao giờ có ai thức tỉnh.

Единственное, что люблю я — сон.

Единственное, что люблю я — сон.
Какая сладость, тишина какая!
Колоколов чуть слышный перезвон,
Мгла неподвижная, вся голубая…

О, если б можно было твердо знать,
Что жизнь — одна и что второй не будет,
Что в вечности мы будем вечно спать,
Что никогда никто нас не разбудит.


VỚI TẤT CẢ CHÂN THÀNH…

Với tất cả chân thành tôi nói lời
Với nỗi buồn, thay đức tin của tôi…
Tôi đã trao đời mình cho ma quỉ
Bạn đừng làm theo ví dụ của tôi. 

Đến một ngày… bạn mệt mỏi nhìn trời
Trong một buổi hoàng hôn rất kỳ diệu.
Những giấc mơ dối lừa đều đi khỏi
Đến một ngày quả báo sẽ dài lâu.

Đừng suy nghĩ với số phận đối đầu
Dù mệt mỏi, cố chấp và căm phẫn
Chỉ một lối thoát – không còn lựa chọn –
Đấy là đem cải đạo lại từ đầu. 

Со всею искренностью говорю

Со всею искренностью говорю,
С печалью, заменяющей мне веру…
За призраки я отдал жизнь свою,
Не следуй моему примеру.

Настанет день… Устало взглянешь ты
На небо, в чудотворный час заката.
Исчезнут обманувшие мечты,
Настанет долгая за них расплата.

Не думай противостоять судьбе,
Негодовать, упорствовать, томиться…
Нет выбора – исход один тебе,
Один, единственный: перекреститься.


THƠ GHI VÀO ALBUM

Tôi không hứa hẹn thủy chung gì hết
Bởi lời này chỉ trống rỗng mà thôi.
Thay đổi nghĩ suy, con tim – tôi biết.
Vì điều này người hòa giải với tôi.

Nhưng dù sao, tôi hứa rằng mãi mãi
Sẽ gìn giữ những giấc mơ rụt rè
Và vẻ dịu dàng, tất nhiên, là thứ
Mà em không giữ dù chỉ một giờ.

Стихи в альбом

Я верности тебе не обещаю.
Что значит верность? – Звук пустой.
Изменит ум, изменит сердце, – знаю.
На том и помирись со мной. 

Но все-таки я обещаю вечно
Беречь те робкие мечты
И нежность ту, которую, конечно,
Не сбережешь и часу ты.



DẠ KHÚC GỬI IRINA ODOETSEVA

Tôi nhớ về thời tuổi trẻ trong đêm
Tôi không ngủ… Giờ thứ ba đang gõ
Và thật lạ lùng, trong cơn mất ngủ
Tôi lại đi suy nghĩ, nhớ về em.

Tôi muốn gửi tặng cho em bông hồng
Tất cả niềm vui. Không hề cay đắng.
Em hãy sống trong màn sương màu hồng
Như năm em mười tám. 
1971

Мадригал Ирине Одоевцевой

Ночами молодость мне помнится,
Не спится… Третий час.
И странно, в горестной бессоннице
Я думаю о Вас.

Хочу послать я розы Вам,
Все – радость. Горя нет.
Живете же в тумане розовом,
Как в 18 лет.


TA MỆT MỎI VÌ LỜI

Ta mệt mỏi vì lời, vì công việc
Và quả thật, chỉ nỗi sợ còn đây…
Một con chim lượn lờ, rồi chim bay
Biết làm sao giờ, trong mây tìm bắt!

Những ngày đầu, những lần đầu gặp mặt
Chỉ còn để lại một dấu vết vàng… 
Tôi vẫn nhớ về buổi chiều hạnh phúc
Tôi bước đi – còn nhà đã trống không.

Chỉ mặt trời chiếu trên thế giới buồn
Quên ở đâu – không có gì quên cả
Những đêm bẩn thỉu ở trong quán rượu
Ai đó giữa tiệc rượu, những bài ca
Đột ngột đứng lên: “Chào cái chết của ta!”

Мы так устали от слов и дела…

Мы так устали от слов и дела,
И, правда, остался только страх…
Вспорхнула птица и улетела,
Что же, – лови ее в облаках! 

Первые дни и первые встречи
Оставили только след золотой…
Я помню, был блаженный вечер,
Иду, – а домик давно пустой.

Лишь солнце плывет над грустным миром,
Где забыть, – забыть ничего нельзя,
Этих грязных ночей в хулиганских трактирах,
Где кто-нибудь вдруг среди песен и пира,
Встает: «Здравствуй, смерть моя!»


ÔI CUỘC ĐỜI TA

Ôi cuộc đời ta! Không cần cảnh lăng xăng
Không cần thở than – tất cả đều trống rỗng
Yên bình xuống thế gian – hãy tìm sự yên bình.  

Tôi muốn để cho tuyết rơi thật dày
Bầu trời trải một màu xanh vô tận
Để cho tôi sống và tôi cảm nhận
Băng giá trong tim, sương muối trên cây.

О, жизнь моя! Не надо суеты 

О, жизнь моя! Не надо суеты,
Не надо жалоб, – это все пустое.
Покой нисходит в мир, – ищи и ты покоя.

Мне хочется, чтоб снег тяжелый лег,
Тянулся небосвод прозрачно-синий,
И чтоб я жил, и чувствовать бы мог
На сердце лед и на деревьях иней.


HÃY ĐI DẠO TRÊN SA MẠC

Hãy đi dạo trên sa mạc mênh mông
Sau tiếng kèn của bình minh dịu dàng
Hãy uống bầu không khí xanh và mặn
Và hãy nhìn những con sóng màu xanh.

Hãy để cho hòn đảo mơ cầu vồng
Và nếu như những giấc mơ đã chán
Không phải cô gái mà là Nữ thần
Đến từ xứ sở pha lê trong sáng. 

Nhưng điều này chưa phải là cuộc sống
Khi trên ngọn sóng tái nhợt đi sai
Thì bạn hạ cánh buồm và cất giọng:
“Thôi đủ rồi. Đến lúc trở về nhà ”?

Гуляй по безбрежной пустыне

Гуляй по безбрежной пустыне
Под нежные трубы зари,
Пей воздух соленый и синий,
На синие волны смотри. 

Пусть остров и радуга снится,
А если наскучили сны,
Не девушка, нет – Царь-девица
Придет из хрустальной страны.

Но это не жизнь. И когда же
Над бледно-неверной волной
Ты парус опустишь и скажешь
«Довольно. Пора и домой»?



NIỀM HẠNH PHÚC

Niềm hạnh phúc, thậm chí họ không mơ
Nhưng niềm hạnh phúc đã lừa dối họ.
Chỉ nỗi buồn chán có mặt trên đời.
Mảnh trăng buồn đang nhìn qua cửa sổ.

Họ đang uống trà, họ làm báo chí
Dưới cơn bão tuyết than thở dài lâu
Họ suy nghĩ, suy nghĩ: “Bạn ở đâu
Hở người bạn của tôi giờ đãng trí?”
1919 

Им счастие даже не снится

Им счастие даже не снится,
И их обмануло оно.
Есть в мире лишь скука. Глядится
Скучающий месяц в окно.

Пьют чай, разбирают газеты,
Под долгие жалобы вьюг,
И думают, думают: «Где ты,
Теперь, мой забывчивый друг?»