Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Ba, 7 tháng 2, 2017

Thơ Apollon Maykov


Apollon Nikolayevich Maykov (tiếng Nga: Аполлон Николаевич Майков, 4 tháng 6 năm 1821 – 20 tháng 3 năm 1897) là nhà thơ Nga, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Sankt-Peterburg (1853). 

Tiểu sử: 
Apollon Maykov sinh ở Moskva, con trai của Nikolay Apollonovich Maykov, là nhà quí tộc, họa sĩ, viện sĩ. Mẹ và các anh chị em của Apollon Maykov đều là những nhà văn, nhà phê bình, dịch giả. Năm 1834 cả gia đình chuyển về Sankt-Peterburg. Từ năm 1837 – 1841 ông học luật ở Đại học Sankt-Peterburg, đầu tiên say mê hội hoạ nhưng về sau đã dành toàn bộ sức lực cho thơ ca. 

Năm 1842 được Nga hoàng Nikolay I cho đi du lịch ở nước ngoài, ông sang Ý, Pháp, Đức và Áo-Hung. Năm 1844 trở về Nga, ông làm việc ở Bảo tàng Rumyantsev, gặp gỡ và làm quen với Belinsky, Nekrasov, Turgenev. Thời kỳ này ông trở thành nhà thơ nổi tiếng, thường xuyên được in thơ trên những tạp chí uy tín nhất của thời đó, ông cũng là người thường xuyên tham gia các buổi đọc thơ trước công chúng và dành được sự mến mộ của bạn đọc. Thời kỳ tiếp theo ông làm cố vấn và sau đó là chủ tịch của Hội đồng kiểm duyệt văn học nước ngoài. Năm 1870 ông dịch xong tác phẩm Слова о полку Игореве (Bài ca về cuộc hành binh Igor) ra tiếng Nga hiện đại, ngoài ra, ông còn dịch nhiều tác phẩm thơ cổ điển của Hy Lạp, Tây Ban Nha, Belarus, Serbia, các tác phẩm của Heinrich Heine, Adam Mickiewicz, Goethe… Năm 1882 ông được tặng Giải thường Pushkin của Viện Hàn lâm Khoa học. 
Apollon Maykov mất ở Sankt-Peterburg năm 1897. 

Tác phẩm: 
*Сборник «Стихотворения» (1842) 
*Поэма «Две судьбы» (1845) 
*Поэма «Машенька» (1846) 
*Поэма «Савонарола» (1851) 
*Поэма «Клермонтский собор» (1853) 
*Цикл стихов «В антологическом роде» 
*Цикл стихов «Века и народы» 
*Цикл стихов «Вечные вопросы» 
*Цикл стихов «Неаполитанский альбом» 
*Цикл стихов «Новогреческие песни» 
*Цикл стихов «Отзывы истории» 
*Цикл стихов «Очерки Рима» 
*Драма «Два мира» (1872) 
*Драма «Три смерти» (1851) 
*Драма «Смерть Люция» (1863) 



FORTUNATA 

Hãy yêu anh, đừng suy nghĩ trầm ngâm 
Đừng buồn bã, đừng nghĩ điều bất hạnh 
Đừng trách cứ hay nghi ngờ trống vắng! 
Nghĩ suy gì? Anh của em, em của anh! 

Hãy quên hết, và trao hết cho anh!.. 
Và em đừng nhìn anh buồn bã thế! 
Đừng cố đoán ra con tim em nhé 
Em đi đi – và trao hết cho tim! 

Vì anh không hề đo đếm gì tình 
Không, tình yêu là tâm hồn anh đó 
Anh yêu, tin và anh tuyên thệ… 
Em như cuộc đời biết mấy đẹp xinh! 

Hạnh phúc sẽ không biến mất trong tình 
Em hãy tin, người kiêu hãnh, như anh 
Rằng đến muôn đời mình không từ giã 
Và nụ hôn đến muôn thuở nghe em… 
1845


 Fortunata

Ах, люби меня без размышлений,
Без тоски, без думы роковой,
Без упреков, без пустых сомнений!
Что тут думать? Я твоя, ты мой!

Все забудь, все брось, мне весь отдайся!..
На меня так грустно не гляди!
Разгадать, что в сердце, не пытайся!
Весь ему отдайся - и иди!

Я любви не числю и не мерю;
Нет, любовь есть вся моя душа.
Я люблю - смеюсь, клянусь и верю...
Ах, как жизнь, мой милый, хороша!..

Верь в любви, что счастью не умчаться,
Верь, как я, о гордый человек,
Что нам ввек с тобой не расставаться
И не кончить поцелуя ввек...



ĐỪNG NÓI


Đừng nói rằng không có niềm cứu rỗi 
Rằng em rã rời trong nỗi buồn thương: 
Đêm càng tối ngôi sao càng chói lọi 
Càng đau thương càng thấy Chúa gần hơn. 


(Из Аполлодора Гностика)

Не говори, что нет спасенья,
Что ты в печалях изнемог:
Чем ночь темней, тем ярче звезды,
Чем глубже скорбь, тем ближе бог...


HỒN THẾ KỶ


Hồn thế kỷ là thần tượng của các anh 
mà thế kỷ của các anh là khoảnh khắc ngắn ngủi. 
Thần tượng sẽ rơi vào quên lãng, vô cùng… 
Hỡi những kẻ điên cuồng! 
chẳng lẽ lý trí của các anh không hiểu nổi 
Rằng cao hơn mọi thế kỷ là cõi Vĩnh hằng!… 


(Из Аполлодора Гностика)

Дух века ваш кумир: а век ваш - краткий миг.
Кумиры валятся в забвенье, в бесконечность...
Безумные! ужель ваш разум не постиг,
          Что выше всех веков - есть Вечность!...



HẠNH PHÚC LÀ GÌ


Hạnh phúc là gì?… 
Trên con đường của mình 
Nghĩa vụ sai khiến anh về đâu – hãy đến 
Không biết kẻ thù, không đo điều ngăn cản 
Hãy yêu, hãy hy vọng, hãy tin. 



В чем счастье?

В чем счастье?..
             В жизненном пути
Куда твой долг велит - идти,
Врагов не знать, преград не мерить,
Любить, надеяться и - верить.


GHI VÀO ALBUM

Cuộc đời hãy còn trước mặt tôi đây 
Tất cả trong mắt nhìn, tai nghe tiếng 
Giống như một thành phố xa buổi sớm 
Đầy âm thanh và ánh sáng đầy!.. 

Và tất cả những khổ đau ngày trước 
Tôi nhớ về với một vẻ hân hoan 
Như những bậc thang để tôi bước lên 
Những bậc thang dẫn tôi về mục đích…


В альбом

Жизнь еще передо мною
Вся в видениях и звуках,
Точно город дальний утром,
Полный звона, полный блеска!..

Все минувшие страданья
Вспоминаю я с восторгом,
Как ступени, по которым
Восходил я к светлой цели...


Thơ Dmitry Merezhkovsky


Dmitry Sergeyevich Merezhkovsky (tiếng Nga: Дмитрий Сергеевич Мережковский, 14 tháng 8 năm 1865 – 9 tháng 12 năm 1941) là nhà văn, nhà phê bình, nhà thơ Nga. Merezhkovsky là chồng của nữ nhà văn, nhà thơ Nga Zinaida Gippius. 

Tiểu sử: 
Dmitry Merezhkovsky sinh ở Sankt-Peterburg trong gia đình một công chức hoàng gia, là con thứ sáu của một gia đình có 9 người con. Từ năm 1884 đến 1889 học lịch sử và ngôn ngữ ở Đại học Sankt-Peterburg. Bắt đầu in thơ từ năm 13 tuổi trên các báo và tạp chí. Năm 15 tuổi, bố tổ chức cho Merezhkovsky gặp nhà văn Fyodor Dostoyevsky – là người không hài lòng với cuộc sống hiện tại của nhà thơ trẻ. “Để sáng tác tốt – cần đau khổ và đau khổ”, những lời này của Fyodor Dostoyevsky, không ngờ, được thể hiện trong số phận của Merezhkovsky sau này. 

Năm 1888 in tập thơ đầu tiên, năm 1892 in tập thơ thứ 2. Năm 1896, chưa đến 30 tuổi, đã có tên trong Từ điển bách khoa “Brokgayz và Efron”, được gọi là “một nhà thơ nổi tiếng”. Năm 1889 Merezhkovsky cưới Zinaida Gippius, sau này cũng là một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của Nga sống lưu vong ở nước ngoài. Năm 1900 cùng với Zinaida Gippius, Vasily Rozanov và một số nhà thơ khác thành lập “Hội Triết học và Tôn giáo”. Dmitry Merezhkovsky chào mừng Cách mạng Tháng Hai nhưng chống đối Cách mạng Tháng Mười. Kết quả là sau khi Cách mạng Tháng Mười thành công, ông bỏ ra sống ở nước ngoài. Năm 1920 đi sang Ba Lan, sau đó sang Pháp. Sau khi ra nước ngoài, tác phẩm của Merezhkovsky hầu như không được nhắc đến ở Liên Xô. Di sản văn học của Merezhkovsky rất đồ sộ, bao gồm tiểu thuyết, các tác phẩm về triết học, tôn giáo, phê bình, thơ. Ngoài ra ông còn là người dịch nhiều tác gia cổ điển của Hy Lạp và La Mã cổ đại. Tiểu thuyết của Merezhkovsky có sự ảnh hưởng đến các nhà văn lớn của thế giới như Mikhail Bulgakov, James Joyce, Thomas Mann… 

Dmitry Merezhkovsky là người nhiều lần có tên trong danh sách đề cử giải Nobel Văn học nhưng vì ông là người ủng hộ Hitler và Mussolini nên không được trao giải. Năm 1939 ông phát biểu trên Đài phát thanh Paris ủng hộ Hitler bị phản đối. Sau đó là những ngày tháng nghèo túng và bệnh tật. Ông mất ngày 9 tháng 12 năm 1941 ở Paris bị Đức chiếm đóng. Tác phẩm của Dmitry Merezhkovsky bắt đầu được bạn đọc quan tâm ở phương Tây từ những năm 1950–1960, còn ở Nga từ những năm 1980-1990, thế kỷ XX. 


Thư mục: 
I. 
*Полное собр. сочин., 17 тт., изд. т-ва М. О. Вольф, СПБ, 1911-1913; То же, 24 тт. (полнее), изд. т-ва Сытина, М., 1914-1915. Не вошли в "Собр. сочин.": 14 декабря, П., 1918; 
*Рождение богов. Тутонкамон на Крите, Прага, 1925; 
*Мессия, "Современ. записки", Париж, 1926, XXVII-XXXII (романы); 
*Будет радость, П., 1916; Романтики, Петроград, 1917 (драмы); 
*Две тайны русской поэзии. Некрасов и Тютчев, Петроград, 1915; 
*Завет Белинского, Петроград, 1915 (критика). 

II. 
*Ларин О. Я., Хронологич. указатель произведений и литературы о произведениях Мережковского, при т. XXIV Полного собр. сочин., СПБ, 1915; 
*Фомин А. Г., Библиография новейшей русской литературы, "Русская литература XX в.", под ред. С. А. Венгерова, т. II, вып. V, М., 1915; 
*Мезьер А. В., Русская словесность с XI по XIX ст. включительно, ч. 2, СПБ, 1902; 
*Владиславлев И. В., Русские писатели, изд. 4-е, Гиз. Л., 1924; 
*Владиславлев И. В, Литература великого десятилетия (1917-1927), том I, Гиз, Москва, 1928; 
*Мандельштам Р. С., Художественная литература в оценке русской марксистской критики, ред. Н. К. Пиксанова, издание 4-е, Гиз, Москва, 1928. 



YÊU THƯƠNGTHÙ HẬN 
(Любовь – Вражда)

Ta yêu nhau nhưng mà ta không hiểu 
Cả hai người cái mới vẫn khát khao 
Nhưng mà ta cũng không phản bội nhau 
Dù tình yêu rất cầu kỳ, nũng nịu. 

Ta muốn được tự do như ngày trước 
Ta nghĩ rằng xiềng xích sẽ giật tung 
Nhưng đều vô phương cứu chữa bao lần 
Kiếp nô lệ của mình ta hiểu được. 

Và cả hai đều không ưa tiên đoán 
Vì cả hai không biết cách sống chung 
Không thù hận bằng tất cả tấm lòng 
Không yêu thương đến vô cùng vô tận. 

Ô
i, những điều quở trách muôn thuở ấy 
Hận thù này quả láu lỉnh, tinh ranh 
Cả hai cô đơn, cả hai thấy buồn 
Cả hai thấy ghétgần nhau mãi mãi. 

Nhưng tranh cãi với em, anh mệt lử 
Anh vẫn yêu, vẫn đau khổ, đọa đầy 
Em yêu ơi, anh cảm nhận điều này 
Nơi không có em, cuộc đời chẳng có. 

Đ
iều dối gian hay sự quỷ quyệt nào 
Mà cả đời ta cùng nhau cãi cọ 
Mỗi người đều muốn trở thành tiếm chủ 
Có ai chịu làm nô lệ ai đâu. 

Nhưng dù sao, tình chẳng cho ta quên 
Mà lớn lên khắp nơi và muôn thuở 
Như cái chết, mù quáng và mạnh mẽ 
Tình yêu thương như thù hận mà em. 

Chỉ khi một người đã dưới suối vàng 
Thì người còn lại may ra hiểu được 
Sức mạnh của tình yêu không thương xót 
Trong giờ cuối cùng, trong phút lâm chung! 

Любовь-вражда

Мы любим и любви не ценим,
И жаждем оба новизны,
Но мы друг другу не изменим,
Мгновенной прихотью полны.

Порой, стремясь к свободе прежней,
Мы думаем, что цепь порвем,
Но каждый раз все безнадежней
Мы наше рабство сознаем.

И не хотим конца предвидеть,
И не умеем вместе жить,-
Ни всей душой возненавидеть,
Ни беспредельно полюбить.

О, эти вечные упреки!
О, эта хитрая вражда!
Тоскуя - оба одиноки,
Враждуя - близки навсегда.

В борьбе с тобой изнемогая
И все ж мучительно любя,
Я только чувствую, родная,
Что жизни нет, где нет тебя.

С каким коварством и обманом
Всю жизнь друг с другом спор ведем,
И каждый хочет быть тираном,
Никто не хочет быть рабом.

Меж тем, забыться не давая,
Она растет всегда, везде,
Как смерть, могучая, слепая
Любовь, подобная вражде.

Когда другой сойдет в могилу,
Тогда поймет один из нас
Любви безжалостную силу -
В тот страшный час, последний час!



CÔ ĐƠN TRONG TÌNH YÊU 
(Одиночество в любви)

Trời dần tối trên thành phố lạ 
Hai đứa ngồi quay mặt vào nhau 
Trong bóng đêm lạnh lẽo, u sầu 
Cả hai lặng im và đau khổ. 

Và cả hai từ lâu hiểu rõ 
Rằng ngôn từ bất lực, vô sinh: 
Một khi rất tội nghiệp trong tim 
Thì thể hiện bằng lời không thể. 

Không điều gì và không ai có lỗi 
Ai không thể nào thắng được kiêu hùng 
Thì người này muôn thuở cô đơn 
Ai yêuphải trở thành nô lệ. 

Khi khát khao hạnh phúc và lòng tốt 
Sống lắt lay vất vưởng tháng ngày xanh 
Tất cả chúng ta muôn thuở một mình 
Anh sống một mình, một mình anh chết. 

Trên kính cửa sổ một màu xám xịt 
Đã
tắt rồi ánh sáng buổi ban chiều 
Chỉ cái chết dạy được cho ta yêu 
Tất cả đi vào mà không lối thoát.

Одиночество в любви

Темнеет. В городе чужом
Друг против друга мы сидим,
В холодном сумраке ночном,
Страдаем оба и молчим.

И оба поняли давно,
Как речь бессильна и мертва:
Чем сердце бедное полно,
Того не выразят слова.

Не виноват никто ни в чем:
Кто гордость победить не мог,
Тот будет вечно одинок,
Кто любит,- должен быть рабом.

Стремясь к блаженству и добру,
Влача томительные дни,
Мы все - одни, всегда - одни:
Я жил один, один умру.

На стеклах бледного окна
Потух вечерний полусвет.-
Любить научит смерть одна
Все то, к чему возврата нет.