Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Sáu, 10 tháng 2, 2017

Thơ Agniya Barto - thơ thiếu nhi


Agniya Lvovna Barto (tiếng Nga: Агния Львовна Барто, 17 tháng 2 năm 1906 – 1 tháng 4 năm 1981) là nữ nhà văn, nhà thơ Nga. Agniya Barto là tác giả của những tập thơ viết cho thiếu nhi rất nổi tiếng.

Tiểu sử:
Agniya Barto sinh ở Moskva, trong gia đình một bác sĩ thú y. Học trường múa ba lê nhưng say mê thơ của Anna Akhmatova, Vladimir Mayakovsky nên đi làm thơ. Sau đó, theo lời khuyên của Bộ trưởng Giáo dục Anatoly Lunacharsky đã tập trung cho sự nghiệp văn học. Năm 1925 in những bài thơ đầu tiên được khen ngợi. Năm 1936 in tập thơ Игрушки (Đồ chơi) vа một số tập thơ khбc, trở thаnh một nhа thơ được trẻ em yêu mến nhất.

Chồng đầu của Agniya Barto là nhà thơ gốc Ý, Pavel Barto. Hai người viết chung nhiều bài thơ nổi tiếng nhưng sau một thời gian sinh con, họ chia tay nhau. Chồng thứ hai của Agniya Barto là Andrei Shchelyaev, một nhà bác học nổi tiếng. Họ có một con gái và sống với nhau gần 50 năm. Ngoài thơ, Agniya Barto còn viết truyện và nhiều kịch bản phim cũng rất nổi tiếng. Agniya Barto được tặng 3 huân chương và nhiều huy chương. Năm 1950 bà được tặng giải thưởng Stalin. Năm 1972 được tặng giải thưởng Lenin. Năm 1976 được tặng giải thưởng Hans Christian Andersen. Tên Agniya Barto được đặt cho một hành tinh nằm giữa sao Hỏa và sao Mộc, tên Agniya Barto cũng được đặt cho một miệng núi lửa trên sao Kim. Thơ của Agniya Barto được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Bà mất ở Moskva năm 1981.


Tác phẩm:

Các tập thơ:
*"Братишки" (1928) 
*"Мальчик наоборот" (1934)
*"Игрушки" (1936)
*"Снегирь" (1939)
*"Стихи детям" (1949; giải thưởng Stalin 1950)
*"Я расту" (1968)
….
C
ác kịch bản phim:
*"Подкидыш" (1939)
*"Слон и верёвочка" (1946)
*"Алеша Птицын вырабатывает характер" (1958)
….




TÔI RẤT HAY Đ MẶT

Tôi rất hay đ mặt
Mà không có nguyên nhân
Bà hàng xóm có lần
Hỏi tôi con dao nhíp
Thế mà tôi phân vân
Đ
ứng nhìn và đ mặt.

Không phải tôi làm đ
Lọ mực lên khăn bàn
Nhưng tôi cảm thấy rằng
Không hiểu sao mặt đ.

Ngay cả trong giấc ngủ
Ngay cả trong giấc mơ
Có ai hỏi câu gì
Tôi trả lời, mặt đ.

Lena Nekrasova
Bảo tôi ngày hôm qua:
mặt là không đẹp
Với lại không thức thời.

Tôi chẳng tranh luận gì 
Chỉ đứng và đ mặt


Я часто краснею

Я часто краснею
Без всякой причины
Соседка спросила:
- Где нож перочинный? -
А я перед нею
Стою и краснею

Не я опрокинул
Чернила на скатерть,
Но чувствую я,
Что краснею некстати.

И даже во сне я,
И даже во сне я
На чей-то вопрос
Отвечаю краснея.

Вчера мне сказала
Некрасова Лена:
- Краснеть некрасиво
И не современно.

Не спорю я с нею,
Стою и краснею.



SUY NGHĨ SUY NGHĨ

Cậu Vova gàn dở
Cứ ngồi đó đăm đăm
Rồi nhắc bản thân mình:
Suy nghĩ, Vova, suy nghĩ”.

Khi trèo lên gác nhỏ
Cứ như người gàn dở
Hay khi chạy ra vườn
Cứ nhắc bản thân mình:
Suy nghĩ, cần suy nghĩ”.

Cậu cho rằng suy nghĩ
Lý trí sẽ khôn lên.

Bé Masa năm tuổi
Hỏi lời khuyên Vova
Nói: bao ngày trôi qua
Thì đầu khôn hơn vậy?


Думай, думай...

Это Вовка, вот чудак!
Он сидит угрюмый,
Сам себе твердит он так:
"Думай, Вовка, думай!"

Заберется на чердак
Или мчится, вот чудак
В дальний угол сада;
Сам себе твердит он так:
"Думать, думать надо!"

Он считает, что от дум
У него мужает ум.

А Маруся, ей пять лет,
Просит Вовку дать совет
И сказать: во сколько дней
Ум становится умней?




TỪ SỚM RA BÃI CỎ

Từ sớm ra bãi cỏ
Em chạy theo bóng tròn
Vừa chạy vừa hát lên
Hát gì, không nhớ nữa.

Quả bóng như vầng dương
Tỏa sáng trên đầu em
Rồi sau bóng lần lượt
Xoay chuyển sang phía khác
Và bóng trở nên xanh
Như hoa cỏ mùa xuân.

С утра на лужайку

С утра на лужайку
Бегу я с мячом,
Бегу, распеваю
Не знаю, о чём…

А мячик, как солнце,
Горит надо мной,
Потом повернётся
Другой стороной
И станет зелёным,
Как травка весной.



EM ĐÃ LỚN

Em bây giờ rất bận
Em phải học đánh vần
Còn đồ chơi của mình
Cho Xéc-gây sẽ tặng.

Nhưng bát đĩa bằng gỗ
Không tặng cho người nào.
Và vẫn cần con thỏ
Chân khập khiễng chẳng sao.

Con gấu bẩn quá chừng…
Búp bê còn tiếc lắm:
Nên đem cho lũ bạn
Hay vứt xuống gầm giường.

Đầu máy cho Xéc-gây?
Nó hỏng, không còn bánh…
Nhưng sau này em vẫn
Cần chơi, dù nửa giờ!

Em bây giờ rất bận
Em phải học đánh vần…
Nhưng em vẫn nghĩ rằng
Cho Xéc-gây không tặng.

Я выросла

Мне теперь не до игрушек -
Я учусь по букварю,
Соберу свои игрушки
И Сереже подарю.

Деревянную посуду
Я пока дарить не буду.
Заяц нужен мне самой -
Ничего, что он хромой,

А медведь измазан слишком...
Куклу жалко отдавать:
Он отдаст ее мальчишкам
Или бросит под кровать.

Паровоз отдать Сереже?
Он плохой, без колеса...
И потом, мне нужно тоже
Поиграть хоть полчаса!

Мне теперь не до игрушек -
Я учусь по букварю...
Но я, кажется, Сереже
Ничего не подарю.



BÀI HÁT RẤT CẦN THIẾT

Chúng tôi giờ học hát
Mỗi thứ bảy hàng tuần
Không chỉ hát giản đơn
Mà hát theo nốt nhạc.

Có rất nhiều giai điệu
Cần phải nhớ làm lòng:
Để khi đi dã ngoại
Những bài hát rất cần
Ở nhà cùng bạn gái
Sẽ hát khi rảnh rang…

Có bài hát phổ thông
Có bài cần nhảy nhót.
Hôm nay ở trong lớp
Hát lên lần đầu tiên.

Thật vui sướng vô cùng
Giá ngày nào cũng hát!
Có bài hát đặc biệt
Dành cho lễ thành hôn.

Rồi sau hai mươi năm
Khi tớ cần lấy vợ
Bài hát này khi đó
Sẽ phù hợp vô cùng.

Нужная песня

Мы учимся петь!
Мы теперь по субботам
Не просто поем –
Распеваем по нотам.

Мы много мелодий
Запомнить должны:
И в дальнем походе
Нам песни нужны,
И дома подруги
Поют на досуге...

Есть плавные песни
И есть плясовые.
Сегодня мы в классе
Поем их впервые.

На каждом уроке
Вот так распевать бы!
Есть даже особая песня –
Для свадьбы.

Вот лет через двадцать
Решу я жениться,
Тогда эта песня
И мне пригодится.




Thơ Olga Berggolts - Ônga Bécgôn


Olga Fyodorovna Berggolts (16 tháng 5 năm 1910 – 13 tháng 11 năm 1975) là nữ nhà thơ, nhà văn Nga.

Tiểu sử:
Olga Berggolts sinh Sankt-Peterburg. Những năm 20 học trường phổ thông, tham gia nhóm Смена, làm quen với Boris Kornilov (sau này trở thành chồng đầu của Olga Berggolts). Năm 1930, tốt nghiệp khoa ngữ văn Đại học Leningrad, Olga Berggolts đi Kazakhstan làm phóng viên của báo Советская степь (Thảo nguyên Xô Viết). Sau đó trở về Leningrad làm biên tập một số tờ báo và xuất bản các cuốn: Годы штурма (Những năm xung kích), ký; Ночь в Новом мире (Đêm trong thế giới mới), truyện; và tậpСтихотворения (Thơ). Từ đây thơ của Olga Berggol bắt đầu được chú ý. Năm 1937 bị bắt giam vì liên hệ vớikẻ thù của nhân dân” (chồng của bà bị xử bắn năm 1938). Năm 1939 bà được trả tự do.

Thời kỳ Thế chiến II Olga Berggolts lại thành phố Leningrad bị bao vây, bà làm việc Đài phát thanh, hàng ngày kêu gọi người Leningrad dũng cảm bảo vệ thành phố thân yêu của mình. Thời gian này bà viết những trường ca nổi tiếng về những người bảo vệ thành phố Leningrad: Февральский дневник (Nhật ký tháng hai) và Ленинградскую поэму (Trường ca Leningrad). Câu nói nổi tiếng của Olga Berggolts “Никто не забыт и ничто не забыто” (Không ai bị lãng quên, không điều gì bị lãng quên) được khắc trên bức tường của nghĩa trang Liệt sỹ Leningrad. Olga Berggolts mất năm 1975 Leningrad.

Tác phẩm:
*Глубинка
  sâu, 1932), ký
*Годы штурма
 (Những năm xung kích), ký; 
*Ночь в Новом мире
 (Đêm trong thế giới mới, 1935), truyện
*Журналисты
 (Nhà báo, 1934), truyện 
*Зерна
 (Ngũ cốc, 1935), thơ
*Стихотворения, (
Thơ, 1934) 
*Книга песен
 (Cuốn sách những bài ca, 1936)
*Февральский дневник
 (Nhật ký tháng hai, 1942), trường ca
*Ленинградская поэма
 (Trường ca Leningrad, 1942), trường ca
*Памяти защитников, (
Ký ức những người bảo vệ, 1944), ký
*Ленинградская тетрадь
 (Cuốn vở ghi chép Leningrad, 1942
*Первороссийск
 (Pervorossiysk, 1950), trường cagiải thưởng Nhà nước Liên Xô 1951.
*Они жили в Ленинграде
 (Họ đã sống Leningrad, 1944), kịch
*У нас на земле
 (Trên đất của ta, 1947), 
*Верность
 (Lòng chung thủy, 1954), bi kịch



KHÔNG AI BỊ LÃNG QUÊN
(Здесь лежат ленинградцы)

Nằm đây là những người dân Leningrad
Những trẻ em, những phụ nữ và những đàn ông
Còn bên cạnh họ là những người lính Hồng quân.
Họ đã dâng tất cả cuộc đời mình
Đ
bảo vệ thành phố quê hương
Cái nôi của cách mạng, thành phố Leningrad.
Những cái tên cao quí mà ta không thể nào đếm hết
Chúng được bảo vệ muôn đời bởi đá hoa cương
Nhưng bạn hãy nhớ rằngkhi nhìn bao phiến đá:
Không ai bị lãng quên, không điều gì bị lãng quên.

Kẻ thù đã tràn vào thành phố trong áo giáp
Nhưng họ đã cùng với quân đội đứng lên
Những học sinh, thầy cô giáo, dân quân, công nhân
Họ muôn người như một và họ nói rằng:
Cái chết sợ chúng ta hơn là ta sợ chết”.
Không thể nào quên được cái mùa đông khắc nghiệt
Và đói khát, tối tăm của năm bốn mốt, bốn hai
Chẳng sự ác liệt của bao trận pháo kích
Hay sự khủng khiếp của những trận mưa bom
Năm bốn ba thành phố được khai thông.

Không một cuộc đời nào có thể bị lãng quên.
Dưới ngọn lửa không ngừng từ mặt đất và mặt nước
Và từ bầu trờichiến công mỗi ngày của mình
Các anh chị đã thực hiện một cách giản đơn và xứng đáng
Và đã cùng với Tổ quốc của mình
Các anh chị em đã giành chiến thắng.

Thì xin hãy đ cho trước những cuộc đời bất diệt
Trên nghĩa trang nàytrang trọng và đau thương
Chúc cờ xuống muôn thuở đ nhân dân biết ơn
Mẹ - Tổ quốc và thành phố anh hùng Leningrad.

Здесь лежат ленинградцы

Здесь лежат ленинградцы. 
Здесь горожане — мужчины, женщины, дети. 
Рядом с ними солдаты-красноармейцы. 
Всею жизнью своею 
они защищали тебя, Ленинград, 
колыбель революции. 
Их имен благородных мы здесь перечислить не сможем, 
так их много под вечной охраной гранита. 
Но знай, внимающий этим камням, 
никто не забыт и ничто не забыто. 

В город ломились враги, в броню и железо одеты, 
но с армией вместе встали 
рабочие, школьники, учителя, ополченцы. 
И все, как один, сказали они: 
«Скорее смерть испугается нас, чем мы смерти». 
Не забыта голодная, лютая, темная 
зима сорок первого — сорок второго, 
ни свирепость обстрелов, 
ни ужас бомбежек в сорок третьем, 
Вся земля городская пробита. 

Ни одной вашей жизни, товарищи, не позабыто. 
Под непрерывным огнем с неба, с земли и с воды 
подвиг свой ежедневный 
вы свершали достойно и просто, 
и вместе с отчизной своей 
вы все одержали победу. 

Так пусть же пред жизнью бессмертною вашей 
на этом печально-торжественном поле 
вечно склоняет знамена народ благодарный, 
Родина-мать и город-герой Ленинград. 


TÌNH LÀ KHÔNG THA
(Я сердце свое никогда не щадила)

Con tim mình không bao giờ em thương xót
Không trong thơ, trong đau khổ, trong say đắm, tình thân
Anh hãy tha thứ cho em. Những gì đã từng
Cay đắng lắm. Nhưng đó là hạnh phúc.

Và cái điều em đam mê, em buồn khủng khiếp
Cái điều này đáng sợ hơn cả bất hạnh đau thương
Chỉ cái bóng nhỏ nhoi mà em tức giận vô cùng
Thật khủng khiếp. Nhưng đó là hạnh phúc.

Cho dù ngạt thở, cho dù nước mắt
Dù lời trách cứ xì xào như cành lá khi mưa:
Còn kinh hoàng hơn cả tha thứ, hơn cả sự hững hờ.
Tình là không tha. Và đó là hạnh phúc.

Em vẫn biết rằng giờ tình yêu đang giết
Không chờ đợi lòng thương, không chia sẻ quyền hành
Nhưng một khi tình tuyệt vời, tình đang sống trong tim
Thì tình không phải là trò vui mà tình là hạnh phúc.

Я сердце свое никогда не щадила

Я сердце свое никогда не щадила:
ни в песне, ни в дружбе, ни в горе,
                        ни в страсти...
Прости меня, милый. Что было, то было
Мне горько.
И все-таки всё это - счастье.

И то, что я страстно, горюче тоскую,
и то, что, страшась небывалой напасти,
на призрак, на малую тень негодую.
Мне страшно...
И все-таки всё это - счастье.

Пускай эти слезы и это удушье,
пусть хлещут упреки, как ветки в ненастье.
Страшней - всепрощенье. Страшней - равнодушье.
Любовь не прощает. И всё это - счастье.

Я знаю теперь, что она убивает,
не ждет состраданья, не делится властью.
Покуда прекрасна, покуда живая,
покуда она не утеха, а - счастье.


BUỔI SÁNG XUÂN

Buổi sáng xuân dạo trên đất băng giá
Tiếng ngân vang kêu lên dưới bàn chân
Chim sáo đá nhất quyết không nhìn em
Khi bay qua những đám mây rất trẻ.

Em nhìn vào mắt đen sáo đá
Và nhắc đi nhắc lại cho mình
Sẽ bình tĩnh như buổi sáng mùa xuân
Không một ai, không bao giờ gặp gỡ.




ROMANCE
Романс (Брожу по городу и ною)

Em lang thang trên phố khẽ hát lên
Một bài ca mà lời không quen lắm
nơi này em chia tay với anh
Rồi ngoảnh lại nhìn nhau, không chịu đựng.

Khi chia tay, ta đã ngoái lại nhìn
Cả hai đứa cảm thấy điều bất hạnh.
Còn đường phố rắc đầy hoa bụi trắng
Và nước, và những chiếc lá dịu dàng.

Em trao hếtmặc thiên hạ cười chê
Dù nợ nần không dễ dàng trút bỏ
Nhưng đ được ngoảnh lại nhìn lần nữa
Người bạn cũ ngày xưa.
1937


Романс

Брожу по городу и ною
безвестной песенки напев...
Вот здесь простились мы с тобою,
здесь оглянулись, не стерпев.

Здесь оглянулись, оступились,
почуяв веянье беды.
А город полн цветочной пыли,
и нежных листьев, и воды.

Я всё отдам - пускай смеются,
пускай расплата нелегка -
за то, чтоб снова оглянуться
на уходящего дружка!



MÙA RỤNG LÁ CÂY
(Листопад)

Mùa thu Matxcơva, trên đường phố treo những tấm 
biển đ dòng chữ “Coi chừng lá rụng!”

Mùa thu! Giữa trời Matxcơva
Những đàn sếu bay về trong sương khói
Những chiếc lá màu vàng sẫm tối
Đ
ang cháy lên trong những khu vườn.
Những tấm biển treo dọc theo con đường
Những tấm biển nhắc nhở cùng tất cả
Dù ai có lứa có đôi, ai người đơn lẻ:
Mùa rụng lá cây, xin hãy dè chừng!”

Ô
i, con tim của tôi sao mà cô đơn
Trên con đường xa lạ!
Buổi chiều lang thang bên những ô cửa sổ
Và khẽ rùng mình dưới những cơn mưa.
Tôi đây một mình có phải đ cho
Một người mà tôi vui, một người mà tôi quí?
Không hiểu vì sao lòng tôi lại nhớ:
Mùa rụng lá cây, xin hãy dè chừng!”

Lúc này đây đã không có gì cần
Thì cũng có nghĩa chẳng còn gì đ mất
Ngay cả người thân yêu, người gần gũi nhất
Đã
không còn có thể gọi bạn thân.
Thì tại vì sao tôi lại cứ buồn
Rằng đến muôn đời tôi đành vĩnh biệt
Một kẻ không vui, một kẻ không hạnh phúc
Một kẻ cô đơn.

Chỉ đáng nực cười hay thiếu cẩn trọng chăng
Hay phải biết đợi chờ, hay chịu đựng
Khôngthật vô cùng khiếp đảm
Vẻ dịu dàng khi vĩnh biệt, như mưa.
Cơn mưa tối sầm, mưa ấm áp nhường kia
Mưa lấp loá và mưa run rẩy thế
Mong anh hạnh phúc và mong anh vui vẻ
Trong phút giây này vĩnh biệt, như mưa.

Tôi một mình đi bộ ra ga
Một mình thôi, không cần ai tiễn biệt
Tôi chưa nói với anh mọi điều đến hết
Nhưng mà thôi, không nói nữa bây giờ.
Con đường nhỏ tràn đầy trong đêm khuya
Những tấm biển dọc đường như vẫn nói
Với những kẻ cô đơn trên đường qua lại:
Mùa rụng lá cây, xin hãy dè chừng!”
1938


Листопад

Осенью в Москве на бульварах
вывешивают дощечки с надписью
“Осторожно, листопад!“

Осень, осень! Над Москвою
Журавли, туман и дым.
Златосумрачной листвою
Загораются сады.
И дощечки на бульварах
всем прохожим говорят,
одиночкам или парам:
“Осторожно, листопад!”

О, как сердцу одиноко
в переулочке чужом!
Вечер бродит мимо окон,
вздрагивая под дождем.
Для кого же здесь одна я,
кто мне дорог, кто мне рад?
Почему припоминаю:
“Осторожно, листопад”?

Ничего не нужно было,-
значит, нечего терять:
даже близким, даже милым,
даже другом не назвать.
Почему же мне тоскливо,
что прощаемся навек,
Невеселый, несчастливый,
одинокий человек?

Что усмешки, что небрежность?
Перетерпишь, переждешь...
Нет - всего страшнее нежность
на прощание, как дождь.
Темный ливень, теплый ливень
весь - сверкание и дрожь!
Будь веселым, будь счастливым
на прощание, как дождь.

...Я одна пойду к вокзалу,
провожатым откажу.
Я не все тебе сказала,
но теперь уж не скажу.
Переулок полон ночью,
а дощечки говорят
проходящим одиночкам:
“Осторожно, листопад”...


MỘT BÀI CA
(Песня)

Chúng mình sẽ không còn gặp lại nhau
Anh hãy mỉm cười, vĩnh biệt
Anh có còn giận hờn chi, không biết
Khi ngày tháng qua mau?

Ngày tháng đã trôi qua, qua mau
Như gió thổi vào nhà trống
Như tiếng rì rào của bụi cây lau

Rồi anh chớ có còn nhớ đến người yêu
Chớ có còn nhớ đến người quen biết
Mà hãy nhớ về như một giấc chiêm bao

Những bài thơ cuồng dại của em
Như mái tóc bờm trong gió
Phập phồng như đống cỏ
Mỗi buổi sáng rung lên
1927


Песня

Мы больше не увидимся —
прощай, улыбнись...
Скажи, не в обиде ты
на быстрые дни?..

Прошли, прошли — не мимо ли,
как сквозняки по комнате,
как тростниковый стон...

...Не вспомнишь
           как любимую,
не вспомни — как знакомую,
а вспомни как сон...

Мои шальные песенки,
да косы на ветру,
к сеновалу лесенку,
дрожь поутру...



TẶNG BORIS KORNILOV(1)
(Борису Корнилову)

Và tất cả đổi thay, em bây giờ đã khác
Em hát khác rồi, khóc cũng khác ngày xưa
B. Kornilov.

1

vâng, em khác hẳn ngày xưa!
Sao cuộc đời kết thúc nhanh quá vậy
Em đã già mà anh đâu nhận thấy
Mà, có thể là anh vẫn nhận ra?

Em sẽ chẳng cầu xin sự tha thứ đâu mà
Hay thề thốt, cũng là vô ích vậy
Nhưng nếu em tin rằng anh còn quay trở lại
Nhưng nếu như anh còn có thể nhận ra.

Thì sẽ quên hết giận hờn, ta lại cùng ta
Ta lại cùng ta, như ngày xưa, sánh bước
Hai chúng mình sẽ khóc và chỉ khóc
Về điều gì ư – chỉ ta biết thôi mà.
1939

2

Em bây giờ lục tìm trong ký ức
Em nhớ về những câu hát đầu tiên:
Ngôi sao trên sông Nêva cháy lên
Và hoạ mi miền ngoại ô đang hót…”

Nhưng cay đắng và ngọt ngào hơn, năm tháng đã qua
Trái đất này mênh mông bát ngát, bao la
Anh có lý – bây giờ em mới biết
Anhngười đầu tiên của em và anh đã mất
Em hát khác rồi, khóc cũng khác ngày xưa…”

Lớp trẻ lớn lên, lại vẫn giống như ta
Lại vẫn sông Nêva, ánh chiều tà, sóng nước
Vẫn hồi hộp, say mê trong từng câu hát
Và tuổi thanh xuân vẫn có lý như xưa.
1940
______________
(1)Kornilov, Boris Petrovich (1907-1938) – nhà thơ Nga Xô-viết, người yêu, chồng đầu của Olga Berggolts, bị xử bắn năm 1938.

Борису Корнилову

«…И все не так, и ты теперь иная,
поешь другое, плачешь о другом…»

Б. Корнилов

1
О да, я иная, совсем уж иная!
Как быстро кончается жизнь…
Я так постарела, что ты не узнаешь.
А может, узнаешь? Скажи!
Не стану прощенья просить я,
ни клятвы —
напрасной — не стану давать.
Но если — я верю — вернешься обратно,
но если сумеешь узнать, —
давай о взаимных обидах забудем,
побродим, как раньше, вдвоем, —
и плакать, и плакать, и плакать мы будем,
мы знаем с тобою — о чем.

2
Перебирая в памяти былое,
я вспомню песни первые свои:
«Звезда горит над розовой Невою,
заставские бормочут соловьи…»

…Но годы шли все горестней и слаще,
земля необозримая кругом.
Теперь — ты прав,
мой первый
и пропащий,
пою другое,
плачу о другом…
А юные девчонки и мальчишки,
они — о том же: сумерки, Нева…
И та же нега в этих песнях дышит,
и молодость по-прежнему права.


EM KHÔNG THỂ GIẤU
(Не утаю от Тебя печали)

Em không thể giấu được anh nỗi buồn
Cũng như niềm vui em không giấu được.
Con tim mình em mở ra đầu tiên
Giống như câu chuyện của anh đích thực.

Không trong đài kỷ niệm hay bia cột
Không trong những lâu đài bằng kínhbê tông
Anh hiện ra không nhìn thấy, rất gần
Trong những con tim ta cổ xưa khao khát.

Anh hiện ra tự nhiên hơn thổn thức
Lặng im và rạo rực dòng máu của em
Và em trở thành thời đại trở thành anh
Qua trái tim của em anh nói được.

Em không thể giấu được anh nỗi buồn
Và không giấu đi điều sâu kín nhất
Con tim mình em mở ra đầu tiên
Giống như câu chuyện của anh thú thật
1937


Не утаю от Тебя печали

Не утаю от Тебя печали,
так же как радости не утаю.
Сердце свое раскрываю вначале,
как достоверную повесть Твою.

Не в монументах и не в обелисках,
не в застекленно-бетонных дворцах -
Ты возникаешь невидимо, близко,
в древних и жадных наших сердцах.

Ты возникаешь естественней вздоха,
крови моей клокотанье и тишь,
и я Тобой становлюсь, Эпоха,
и Ты через сердце мое говоришь.

И я не таю от Тебя печали
и самого тайного не таю:
сердце свое раскрываю вначале,
как исповедную повесть Твою...


TÔI SỢ RẰNG... 
(Я так боюсь, что всех, кого люблю)

Tôi sợ rằng tất cả những người tôi yêu
sẽ đ mất đi lần nữa
Tôi bây giờ gom góp và ấp
tình yêu của mọi người.

Và nếu ai đó cườitôi không sợ
rồi sẽ đến một ngày
khi mối lo ngại tiên tri của tôi
người ta sẽ hiểu.
1939


Я так боюсь

Я так боюсь, что всех, кого люблю,
    утрачу вновь...
Я так теперь лелею и коплю
    людей любовь.

И если кто смеется — не боюсь:
    настанут дни,
когда тревогу вещую мою
    поймут они.


LỜI THỈNH CẦU
Просьба (Нет, ни слёз, ни сожалений)

Không nước mắt hay thương xót gì đâu
không điều gì còn chờ đợi.
Chỉ mong được ngủ mà không mơ tới
ngủ thật lâu, thật lâu, thật lâu.
Nếu đã không còn thiêm thiếp khổ đau
đ
ang nhắc lại và dập dồn máu nóng
thì chớ mơ về ly biệt u sầu
và tình yêu của chúng mình cay đắng.
Giấc mơ về gặp gỡ và vui sướng
hãy bỏ lại phía sau.
Và dù anh không còn mơ nữa, chẳng cần đâu
người duy nhất, người yêu thương
Dù với đầm bạch dương
em mơ về đôi khi, thỉnh thoảng.
Và trong thành giếng đêm bằng ván
một ngôi sao cô đơn
7-1939


Просьба

Нет, ни слёз, ни сожалений —
Ничего не надо ждать.
Только б спать без сновидений
Долго, долго, долго спать.

А уж коль не дремлет мука,
Береди́т и гонит кровь —
Пусть не снится мне разлука,
Наша горькая любовь.

Сон про встречу, про отраду
Пусть минует стороной.
Даже ты не снись, не надо,
Мой единственный, родной…

Пусть с берёзками болотце
Мне приснится иногда.
В срубе тёмного колодца
Одинокая звезда…


VÌ MỘT LỜI HAY NHẤT
(Во имя лучшего слова)

Vì một lời hay nhất ấy
của một người trong hai đứa chúng ta
anh cần đi yêu lại
nói với em điều ấy bây giờ.

Anh đã bỏ qua thời gian!
Cái gánh nặng hạnh phúc và kiêu hãnh
của tình em to lớn
anh hãy gọi về, chớ dềnh dang.

Và anh chớ tìm kiếm cái phần
của chiều cao không tìm ra người khác
vì trong đó – là ý thích sau chót
và bầu không khí cuối của hai người chung.
1949


Во имя лучшего слова

Во имя лучшего слова,
одного с тобою у нас,
ты должен
         влюбиться снова,
сказать мне об этом сейчас.

Смотри, ты упустишь время!
Тяжелой моей любви
счастливое, гордое бремя,
не медля, обратно зови.

Ты лучшей не сыщешь доли,
высот не найдешь других,
ибо в ней - последняя воля,
последний воздух Двоих.


HY VỌNG
(Надежда)

Tôi vẫn tin rằng sẽ quay lại cuộc đời
một lần trong buổi bình minh thức dậy.
Trong buổi sớm, nhẹ nhàng, trong giọt sương mai
bao trùm lên những lá cànhhết thảy
còn tôi cúi gương mặt còn tươi trẻ
nhìn vào nước như điều lạ kỳ
những giọt nước mắt sung sướng trào ra
và nhẹ nhàng nhìn thấy cuộc đời xa thẳm
tôi vẫn hãy còn tin rằng trong buổi sớm
từng rét run, lấp lánh rồi lại quay về
với tôicuộc đời nghèo khó chẳng hề vui
không dám thổn thức nức nở và sung sướng
1949


Надежда

Я все еще верю,  что к жизни вернусь,-
однажды на раннем рассвете проснусь.
На раннем, на легком, в прозрачной росе,
где каплями ветки унизаны все,
и в чаше росянки стоит озерко,
и в нем отражается бег облаков,
и я, наклоняясь лицом молодым,
смотрю как на чудо на каплю воды,
и слезы восторга бегут, и легко,
и виден весь мир далеко-далеко...
Я все еще верю, что раннее утро,
знобя и сверкая, вернется опять
ко мне - обнищавшей,
                безрадостно-мудрой,
не смеющей радоваться и рыдать...


KHÔNG ĐẾN ĐÁM CƯỚI BẠC
(Ни до серебряной и ни до золотой)

Không đến đám cưới bạc, chẳng đến đám cưới vàng
Tất cả đã rõ ràng, với anh không sống hết.
Nhưng ta đã từng sống qua đám cưới sắt
Bên bờ cái chết trong cuộc chiến tranh.
Tôi sẽ không nhường nó cho tất cả bạc vàng
Cũng như vẫn yêu thứ chỉ làm bằng sắt.
1949


Ни до серебряной и ни до золотой

Ни до серебряной и ни до золотой,
всем ясно, я не доживу с тобой.
Зато у нас железная была -
по кромке смерти на войне прошла.
Всем золотым ее не уступлю:
всё так же, как в железную, люблю.


BUỔI TỐI EM ĐÃ ĐÁNH MẤT
Gửi B. K
(Потеряла я вечером слово)


Buổi tối em đã đ mất một lời
Dành riêng cho anh mà em đã nghĩ.
Và em lại đã bắt đầu lần nữa
Bài ca nàyhết giận rồi thương
Rồi thiếp đi trong nước mắt, không tin
Đ
iều em thấy trong mơ khi gần sáng
Sao anh tìm ra mất mát của em
Khi bắt đầu viết bài hát về em.

Потеряла я вечером слово

 Б. К.

Потеряла я вечером слово,
что придумала для тебя.
Начинала снова и снова
эту песнь — сердясь, любя...
И уснула в слезах, не веря,
что увижу к утру во сне,
как найдешь ты мою потерю,
начиная песнь обо мне.



XIN ĐỪNG NHÌN NGOÁI LẠI
(О, не оглядывайтесь назад)

Ô
i, xin đừng nhìn ngoái lại
vào tảng băng này
vào bóng tối này
có ánh mắt ai
đ
ang nhìn đấy
không thể nào không đáp lại ánh mắt đâu.

Ngày hôm nay tôi ngoái nhìnvà bỗng thấy
người bạn của tôi đang nhìn từ tảng băng
á
nh mắt của người bạn tôi sống động vô cùng
người duy nhất của tôimuôn đời, mãi mãi.

Chuyện là thế mà tôi đã không biết rằng
Tôi đã nghĩ rằng tôi thở bằng người khác
Nhưng, tử hình của tôi, niềm vui của tôi, mơ ước
tôi chỉ sống được bằng ánh mắt của anh!

Tôi vẫn hãy còn chung thủy chỉ với anh
và chỉ với điều này tôi vẫn đúng:
tôi là vợ anhvới những người còn sống
là góa phụ của anhvới tôi và anh. 

О, не оглядывайтесь назад

О, не оглядывайтесь назад,
на этот лед,
         на эту тьму;
там жадно ждет вас
           чей-то взгляд,
не сможете вы не ответить ему.

Вот я оглянулась сегодня... Вдруг
вижу: глядит на меня изо льда
живыми глазами живой мой друг,
единственный мой - навсегда, навсегда.

А я и не знала, что это так.
Я думала, что дышу иным.
Но, казнь моя, радость моя, мечта,
жива я только под взглядом твоим!

Я только ему еще верна,
я только этим еще права:
для всех живущих - его жена,
для нас с тобою - твоя вдова.


NGẢI CỨU
(Полынь)

Tôi mím miệng một cách bướng bỉnh
Giữ lại tất cả mọi lời
Ngải cứu, ngải cứu, hoa cỏ của tôi
Hoa cỏ của tôi đã lớn.

Ta đã không thể tha thứ cho nhau bằng hết
Mà mọi điều ta lại đã giấu nhau
Anh lấy của tôi chiếc khăn màu
Giật tung đường viền cạp

Anh làm gì với chiếc khăn đã rách
Anh làm gì với những đường viền?...
Còn tôi cần gì con tim đã mòn
Vì những bước đi trên đất?...

Tôi đâu có cần những lời dễ thương
Từ những người không yêu, người xa lạ?...
Hoa cỏ của tôi, ngải cứu, ngải cứu
Nằm trên tất cả mọi con đường

Полынь

Но сжала рот упрямо я,
замкнула все слова.
Полынь, полынь, трава моя,
цвела моя трава.

Все не могли проститься мы,
все утаили мы.
Ты взял платок мой ситцевый,
сорвал кусок каймы...

Зачем платок мой порванный,
что сделал ты с каймой?..
Зачем мне сердце торное
от поступи земной?..

Зачем мне милые слова
от нелюбых - чужих?..
Полынь, полынь, моя трава,

на всех путях лежит...


CON ÉN TRÊN BỜ DỐC
(Ласточки над обрывом)

Ô, con chim én tảo tần
Ô, con chim màu xám dễ thương!
G. Derzhavin.

1
Em đến bờ dốc ngày trước
Đưa mắt nhìn số phận của mình.
Nơi này em đã từng hạnh phúc
Cách đây đã nhiều năm…

Biển xa có màu xanh biếc
Và ánh hoàng hôn màu đồng.
Và cỏ cây vẫn khe khẽ hát
Như trước đó đã nhiều năm.

Và có cả mùi rau thơm
Cả những con sa yến khóc…
Nhưng những mất mát của mình
Anh biết không, - lấy gì để chuộc?

Không chuộc, không thốt ra lời
Và không bắt đầu lại nữa.
Không thốt ra lời nguyền rủa.
Mà nhớ lại, và lặng thinh.

Và em đã ngồi im lặng
Trùm mặt bằng chiếc khăn
Để cánh của con chim én
Khẽ chạm lên bờ vai em…

2
Con én từ trên cao ấy
Lao xuống chạm bờ vai em.
Còn em thì đã nghĩ rằng anh
Chạm bàn tay, nhớ lại điều gì đấy.

Và em hướng về phía anh
Quên cả giận hờn, luống cuống
Tha thứ tất cả cho số phận mình
Vì cái bàn tay khẽ chạm.

3
Và em đã vô cùng sung sướng
Trước bàn tay khẽ chạm của anh
Hỡi chim én, số phận của em
Quyến rũ, xốn xang, bạo dạn!

Và em đã đứng lên cẩn thận
Lại mỉm cười với cả trần gian.
Và đã chính xác mọc lên đôi cánh
Nơi đôi cánh én khẽ chạm lên.
1940

Ласточки над обрывом

...О, домовитая ласточка,
       О, милосизая птичка!
              Г. Державин
        
1
Пришла к тому обрыву
судьбе взглянуть в глаза.
Вот здесь была счастливой
я много лет назад...

Морская даль синела,
и бронзов был закат.
Трава чуть-чуть свистела,
как много лет назад.

И так же пахло мятой,
и плакали стрижи...
Но чем свои утраты,
чем выкуплю - скажи?

Не выкупить, не вымолить
и снова не начать.
Проклятия не вымолвить.
Припомнить и - молчать.

Так тихо я сидела,
закрыв лицо платком,
что ласточка задела
плечо мое - крылом...

2
Стремясь с безумной высоты,
задела ласточка плечо мне.
А я подумала, что ты
рукой коснулся, что-то вспомнив.

И обернулась я к тебе,
забыв обиды и смятенье,
прощая все своей судьбе
за легкое прикосновенье.

3
Как обрадовалась я
твоему прикосновенью,
ласточка, судьба моя,
трепет, дерзость, искушенье!

Точно встала я с земли,
снова миру улыбнулась.
Точно крылья проросли
там, где ты
       крылом коснулась.