Yevgeny Aleksandrovich Yevtushenko (hoặc Evgeny
Aleksandrovich Evtushenko -
tiếng Nga: Евге́ний Алекса́ндрович Евтуше́нко – tên khai sinh: Евгений
Александрович Гангнус)(sinh ngày 18 tháng 7 năm 1933) – nhà thơ Nga. Ông còn nổi
tiếng là đạo diễn và diễn viên điện ảnh, là một trong những nhà thơ lớn nhất của
Nga thế kỉ XX.
Tiểu sử:
Yevgeny Aleksandrovich Yevtushenko sinh ở thị trấn Zima, tỉnh Irkutsk, vùng Siberia, Nga. Bố là Aleksandr Rudolfovich Gangnus, mẹ là Zinaida Ermolaevna Evtushenko, khi lớn lên Yevtushenko lấy họ mẹ. Bắt đầu in thơ từ năm 16 tuổi. Năm 1951-1954 học ở trường viết văn Maxim Gorky. Hội viên Hội nhà văn Liên Xô từ năm 1952.
Những tác phẩm nổi tiếng nhất của Yevtushenko có thể kể đến các tập thơ: “Con đường của những người nhiệt tâm”, 1956; “Thủy điện Brat”, 1965; “Đằng sau tượng Nữ thần tự do”, 1970; “Thơ tâm tình”, 1973; tiểu thuyết: “Đừng chết trước cái chết”, 1994… Ngoài thơ và văn xuôi, ông còn là đạo diễn của hai bộ phim theo kịch bản của mình: “Vườn trẻ”, 1984; “Lễ mai táng Stalin”, 1991. Năm 1979 ông đóng vai Sionkovsky trong bộ phim “Cất cánh” của đạo diễn Kulik. Năm 1986-1991 ông là thư kí của Hội nhà văn Liên Xô. Năm 1983 được bầu làm Đại biểu Quốc hội Liên Xô của tỉnh Kharkov. Từ năm 1991 ông kí hợp đồng với Đại học Oklahoma (Mỹ) dạy văn học Nga ở trường này.
Sự đánh giá:
Nhà văn, nhà phê bình Yevgeny Rein – người được coi là người bạn, vừa là người thầy của Joseph Brodsky (giải Nobel Văn học 1986) viết: “Nước Nga là một xứ sở đặc biệt, quả quyết trong tất cả mọi mặt, thậm chí dưới góc nhìn của gương mặt thơ ca. Đã 200 năm nay thơ ca Nga chỉ có một nhà thơ vĩ đại. Vẫn như vậy trong thế kỷ 18, trong thế kỷ 19 và thế kỷ 20. Chỉ có điều, nhà thơ vĩ đại này với nhiều khuôn mặt. Đấy là một dây xích liền mạch. Xin đưa ra một thứ tự: Derzhavin – Pushkin – Lermontov – Nekrasov – Blok – Mayakovsky – Akhmatova – Yevtushenko. Đấy là nhà thơ vĩ đại duy nhất với nhiều gương mặt khác nhau. Đấy là số phận thơ ca của nước Nga”.
Cho đến đầu thế kỷ 21 này, đối với Yevgeny Yevtushenko, thứ tự này xem ra vẫn đúng.
Giải thưởng:
Yevgeny Yevtushenko được tặng rất nhiều giải thưởng của Liên Xô và các nước. Đáng kể nhất có thể kể đến: Huân chương Lao động cờ đỏ, 1983; Giải thưởng Sư tử vàng (Italia); Giải thưởng Quốc gia của Gruzia, Latvia, Ukraina…, Giải thưởng Walt Whitman. Năm 1995, tiểu thuyết “Đừng chết trước cái chết” được công nhận là tiểu thuyết nước ngoài hay nhất của Italia. Năm 2002 được tặng giải quốc tế Aquila của Italia. Có thể nói Evtushenko đã có vô vàn giải thưởng các loại, chỉ còn thiếu giải Nobel. Ông đã từng được đề cử trao giải Nobel nhưng xem chừng hãy còn xa lắm.
Ông là thành viên danh dự của Viện hàn lâm Nghệ thuật Mỹ, Tây Ban Nha, Giáo sư danh dự của Đại học mới New York, là công dân danh dự của nhiều thành phố ở Nga và Mỹ. Năm 1994 Bảo tàng Bách khoa Moskva ký với Yevtushenko hợp đồng nhận quyền tổ chức sinh nhật của ông trong vòng 25 năm, đến năm 2019. Hằng năm, cứ đến dịp sinh nhật của mình, ông lại từ Mỹ trở về Nga đọc thơ cho người hâm mộ. Thơ của Yevgeny Yevtushen được dịch nhiều ra tiếng Việt.
Tác phẩm:
*Шоссе энтузиастов (Con đường của những người nhiệt tâm, 1956), thơ
*Братская ГЭС (Thủy điện Brat, 1965), thơ
*Под кожей статуи Свободы (Đằng sau tượng Nữ thần tự do, 1970), thơ
*Интимная лирика (Thơ tâm tình, 1973), thơ
*Не умирай прежде смерти (Đừng chết trước cái chết, 1994), tiểu thuyết
*Ягодные места (Những miền quả mọng, 1981), tiểu thuyết
*Взлет (Cất cánh, 1979), phim
*Детский сад (Vườn trẻ, 1984), phim
*Похороны Сталина (Lễ mai táng Stalin, 1991), phim
Tiểu sử:
Yevgeny Aleksandrovich Yevtushenko sinh ở thị trấn Zima, tỉnh Irkutsk, vùng Siberia, Nga. Bố là Aleksandr Rudolfovich Gangnus, mẹ là Zinaida Ermolaevna Evtushenko, khi lớn lên Yevtushenko lấy họ mẹ. Bắt đầu in thơ từ năm 16 tuổi. Năm 1951-1954 học ở trường viết văn Maxim Gorky. Hội viên Hội nhà văn Liên Xô từ năm 1952.
Những tác phẩm nổi tiếng nhất của Yevtushenko có thể kể đến các tập thơ: “Con đường của những người nhiệt tâm”, 1956; “Thủy điện Brat”, 1965; “Đằng sau tượng Nữ thần tự do”, 1970; “Thơ tâm tình”, 1973; tiểu thuyết: “Đừng chết trước cái chết”, 1994… Ngoài thơ và văn xuôi, ông còn là đạo diễn của hai bộ phim theo kịch bản của mình: “Vườn trẻ”, 1984; “Lễ mai táng Stalin”, 1991. Năm 1979 ông đóng vai Sionkovsky trong bộ phim “Cất cánh” của đạo diễn Kulik. Năm 1986-1991 ông là thư kí của Hội nhà văn Liên Xô. Năm 1983 được bầu làm Đại biểu Quốc hội Liên Xô của tỉnh Kharkov. Từ năm 1991 ông kí hợp đồng với Đại học Oklahoma (Mỹ) dạy văn học Nga ở trường này.
Sự đánh giá:
Nhà văn, nhà phê bình Yevgeny Rein – người được coi là người bạn, vừa là người thầy của Joseph Brodsky (giải Nobel Văn học 1986) viết: “Nước Nga là một xứ sở đặc biệt, quả quyết trong tất cả mọi mặt, thậm chí dưới góc nhìn của gương mặt thơ ca. Đã 200 năm nay thơ ca Nga chỉ có một nhà thơ vĩ đại. Vẫn như vậy trong thế kỷ 18, trong thế kỷ 19 và thế kỷ 20. Chỉ có điều, nhà thơ vĩ đại này với nhiều khuôn mặt. Đấy là một dây xích liền mạch. Xin đưa ra một thứ tự: Derzhavin – Pushkin – Lermontov – Nekrasov – Blok – Mayakovsky – Akhmatova – Yevtushenko. Đấy là nhà thơ vĩ đại duy nhất với nhiều gương mặt khác nhau. Đấy là số phận thơ ca của nước Nga”.
Cho đến đầu thế kỷ 21 này, đối với Yevgeny Yevtushenko, thứ tự này xem ra vẫn đúng.
Giải thưởng:
Yevgeny Yevtushenko được tặng rất nhiều giải thưởng của Liên Xô và các nước. Đáng kể nhất có thể kể đến: Huân chương Lao động cờ đỏ, 1983; Giải thưởng Sư tử vàng (Italia); Giải thưởng Quốc gia của Gruzia, Latvia, Ukraina…, Giải thưởng Walt Whitman. Năm 1995, tiểu thuyết “Đừng chết trước cái chết” được công nhận là tiểu thuyết nước ngoài hay nhất của Italia. Năm 2002 được tặng giải quốc tế Aquila của Italia. Có thể nói Evtushenko đã có vô vàn giải thưởng các loại, chỉ còn thiếu giải Nobel. Ông đã từng được đề cử trao giải Nobel nhưng xem chừng hãy còn xa lắm.
Ông là thành viên danh dự của Viện hàn lâm Nghệ thuật Mỹ, Tây Ban Nha, Giáo sư danh dự của Đại học mới New York, là công dân danh dự của nhiều thành phố ở Nga và Mỹ. Năm 1994 Bảo tàng Bách khoa Moskva ký với Yevtushenko hợp đồng nhận quyền tổ chức sinh nhật của ông trong vòng 25 năm, đến năm 2019. Hằng năm, cứ đến dịp sinh nhật của mình, ông lại từ Mỹ trở về Nga đọc thơ cho người hâm mộ. Thơ của Yevgeny Yevtushen được dịch nhiều ra tiếng Việt.
Tác phẩm:
*Шоссе энтузиастов (Con đường của những người nhiệt tâm, 1956), thơ
*Братская ГЭС (Thủy điện Brat, 1965), thơ
*Под кожей статуи Свободы (Đằng sau tượng Nữ thần tự do, 1970), thơ
*Интимная лирика (Thơ tâm tình, 1973), thơ
*Не умирай прежде смерти (Đừng chết trước cái chết, 1994), tiểu thuyết
*Ягодные места (Những miền quả mọng, 1981), tiểu thuyết
*Взлет (Cất cánh, 1979), phim
*Детский сад (Vườn trẻ, 1984), phim
*Похороны Сталина (Lễ mai táng Stalin, 1991), phim
Thơ Evgeny Evtushenko đã dịch ra tiếng Việt:
LUÔN LUÔN TÌM MỘT BÀN TAY PHỤ NỮ
Luôn luôn tìm một bàn tay phụ nữ
Một bàn tay rất mát mẻ, nhẹ nhàng
Một chút yêu yêu, một chút thương thương
Như một người em bàn tay ấp ủ.
Luôn luôn tìm một bờ vai phụ nữ
Để trong bờ vai hơi thở nóng bừng
Để khi mái đầu phóng đãng ấp lên
Sẽ tin tưởng trao bờ vai giấc ngủ.
Luôn luôn tìm một đôi mắt phụ nữ
Để làm tiêu tan đau khổ của mình
Nếu không tất cả, thì dù một phần
Những con mắt sẽ nhìn ra đau khổ.
Nhưng cũng có một bàn tay phụ nữ
Một bàn tay đặc biệt, rất ngọt ngào
Khi lên vầng trán mệt mỏi chạm vào
Giống như vĩnh hằng, giống như phận số.
Nhưng cũng có một bờ vai phụ nữ
Một bờ vai không hiểu tại vì đâu
Không cho một đêm, không cho dài lâu
Và điều này từ lâu anh đã rõ.
Nhưng cũng có một đôi mắt phụ nữ
Một đôi mắt luôn nhìn ngó rất buồn
Và chuyện này cho đến ngày cuối cùng
Con mắt của tình, của lương tâm anh đó.
Còn anh sống trái ngược với đời anh
Và ít ỏi một bàn tay phụ nữ
Một bờ vai, một đôi mắt buồn bã
Mà trong đời, anh phụ bạc bao lần!
Thì sự trừng phạt sẽ đến với anh
“Kẻ phụ tình!” – mưa vào anh sẽ đập
“Kẻ phụ tình!” – cành lá quất lên mặt
“Kẻ phụ tình!” – tiếng vọng giữa rừng xanh.
Anh trằn trọc, anh đau khổ, anh buồn
Và tất cả cho mình không tha thứ.
Nhưng chỉ bàn tay của người phụ nữ
Tha thứ cho anh, dù có phật lòng.
Và chỉ bờ vai mòn mỏi chờ trông
Tha thứ bây giờ và còn tha thứ nữa
Và chỉ có đôi mắt ai buồn bã
Tha thứ cho anh cả những thứ không nên…
1961
Всегда найдется женская рука
Всегда найдется женская рука,
чтобы она, прохладна и легка,
жалея и немножечко любя,
как брата, успокоила тебя.
Всегда найдется женское плечо,
чтобы в него дышал ты горячо,
припав к нему беспутной головой,
ему доверив сон мятежный свой.
Всегда найдутся женские глаза,
чтобы они, всю боль твою глуша,
а если и не всю, то часть ее,
увидели страдание твое.
Но есть такая женская рука,
которая особенно сладка,
когда она измученного лба
касается, как вечность и судьба.
Но есть такое женское плечо,
которое неведомо за что
не на ночь, а навек тебе дано,
и это понял ты давным-давно.
Но есть такие женские глаза,
которые глядят всегда грустя,
и это до последних твоих дней
глаза любви и совести твоей.
А ты живешь себе же вопреки,
и мало тебе только той руки,
того плеча и тех печальных глаз...
Ты предавал их в жизни столько раз!
И вот оно - возмездье - настает.
"Предатель!"- дождь тебя наотмашь бьет.
"Предатель!"- ветки хлещут по лицу.
"Предатель!"- эхо слышится в лесу.
Ты мечешься, ты мучишься, грустишь.
Ты сам себе все это не простишь.
И только та прозрачная рука
простит, хотя обида и тяжка,
и только то усталое плечо
простит сейчас, да и простит еще,
и только те печальные глаза
простят все то, чего прощать нельзя...
TƯỞNG NHỚ AKHMATOVA
Akhmatova là người của hai thời
Có vẻ như về nàng không nên khóc
Nàng đã sống, có vẻ không tin được
Lại không thể tin nàng đã qua đời.
Nàng ra đi, giống như một bài ca
Đi vào sâu thẳm của khu vườn tối
Nàng ra đi, có vẻ như mãi mãi
Từ Leningrad trở về Pê-téc-bua.
Nàng gắn chặt với cả hai thời gian
Giữa tâm điểm của sương và của bóng
Nếu Puskin là mặt trời, thì nàng
Trong thơ ca – sẽ mãi là đêm trắng.
Trên cái chết, bất tử, ngoài tất cả
Nàng đã nằm – có lẽ nói thế này:
Không phải trong hiện tại, mà trên nó
Nàng đã nằm giữa quá khứ, tương lai.
Và quá khứ bên quan tài im lặng
Không như của người sống hợp ý trời.
Bờm tóc bạc sáng sủa và kiêu hãnh
Lấp lánh từ những chíêc mũ lỗi thời.
Vâng, thời gian làm đổi thay đường nét
Những con người thời đó ở nước Nga
Nhưng đôi mắt họ – ánh sáng nhân từ –
Chẳng gió xoáy hay sương nào dập tắt.
Tương lai yếu đuối trên những đôi vai
Những cậu bé đi đến trường đã đốt
Ngọn lửa học trò trong từng đôi mắt
Những cuốn vở con nắm chặt trong tay.
Và những cô bé trong cặp của mình
Có lẽ mang nhật ký và danh mục
Họ vẫn thế – thiêng liêng và hạnh phúc
Vẫn ngây thơ như ngày ấy nữ sinh.
Sự sụp đổ toàn cầu, xin đừng để
Mất đi mối liên hệ của thời gian
Vì không thể hai nước Nga – điều giản đơn
Cũng như hai Akhmatova, không thể.
Памяти Ахматовой
Ахматова двувременной была.
О ней и плакать как-то не пристало.
Не верилось, когда она жила,
не верилось, когда ее не стало.
Она ушла, как будто бы напев
уходит в глубь темнеющего сада.
Она ушла, как будто бы навек
вернулась в Петербург из Ленинграда.
Она связала эти времена
в туманно-теневое средоточье,
и если Пушкин — солнце,
то она в поэзии пребудет белой ночью.
Над смертью и бессмертьем, вне всего,
она лежала, как бы между прочим,
не в настоящем, а поверх него,
лежала между будущим и прошлым.
И прошлое у гроба тихо шло
не вереницей дам богоугодных.
Седые челки гордо и светло
мерцали из-под шляпок старомодных.
Да, изменило время их черты,
красавиц той, когдатошней России,
но их глаза — лампады доброты —
ни крутоверть, ни мгла не загасили.
Шло будущее, слабое в плечах.
Шли мальчики. Они себя сжигали
пожаром гимназическим в очах
и в кулаках тетрадочки сжимали.
И девочки в портфельчиках своих
несли, наверно, дневники и списки.
Все те же — из Блаженных и святых —
наивные российские курсистки.
И ты, распад всемирный, не убий
ту связь времен, — она еще поможет.
Ведь просто быть не может двух Россий,
как быть и двух Ахматовых не может.
NHỮNG CON NGƯỜI
Người tẻ nhạt trên đời không hề có
Số phận như lịch sử những hành tinh.
Mỗi hành tinh có đặc điểm của mình
Và chẳng có hành tinh nào giống nó.
Nếu như ai đấy sống đời lặng lẽ
Với vẻ ít ai để ý của mình
Thì người này với những kẻ xung quanh
Hay ở cái không có gì đáng nhớ.
Mỗi con người bí ẩn và riêng lẻ.
Có trong đời một khoảnh khắc tuyệt vời.
Có một giờ phút khủng khiếp trong đời.
Nhưng chúng ta đều không ai biết rõ.
Và nếu con người trần gian từ giã
Bông tuyết đầu của người ấy đi theo
Trận đánh đầu tiên và nụ hôn đầu…
Con người này mang theo mình tất cả.
Chỉ còn lại những cây cầu, sách vở
Những máy móc và cả những bức tranh
Có nhiều thứ phải bỏ lại sau mình
Nhưng vẫn mất đi một điều gì đó.
Luật trò chơi không tiếc thương như thế
Không phải người, mà thế giới mất đi.
Ta nhớ người trần lầm lỗi thế kia
Nhưng sâu xa ta biết gì về họ?
Và cả bạn bè, cả anh em nữa?
Ta biết về người duy nhất của mình?
Và ngay người cha ruột thịt của mình
Ta biết hết, mà không hề biết rõ.
Người ra đi… không còn quay về nữa
Không hồi sinh những thế giới bí huyền.
Cứ mỗi lần tôi lại muốn kêu lên
Vì cuộc đời chỉ đi về một phía…
Людей неинтересных в мире нет
Людей неинтересных в мире нет.
Их судьбы — как истории планет.
У каждой все особое, свое,
и нет планет, похожих на нее.
А если кто-то незаметно жил
и с этой незаметностью дружил,
он интересен был среди людей
самой неинтересностью своей.
У каждого — свой тайный личный мир.
Есть в мире этом самый лучший миг.
Есть в мире этом самый страшный час,
но это все неведомо для нас.
И если умирает человек,
с ним умирает первый его снег,
и первый поцелуй, и первый бой...
Все это забирает он с собой.
Да, остаются книги и мосты,
машины и художников холсты,
да, многому остаться суждено,
но что-то ведь уходит все равно!
Таков закон безжалостной игры.
Не люди умирают, а миры.
Людей мы помним, грешных и земных.
А что мы знали, в сущности, о них?
Что знаем мы про братьев, про друзей,
что знаем о единственной своей?
И про отца родного своего
мы, зная все, не знаем ничего.
Уходят люди... Их не возвратить.
Их тайные миры не возродить.
И каждый раз мне хочется опять
от этой невозвратности кричать.
Anh đã hết yêu em… một kết cục tầm thường
Vô vị như cuộc đời, vô vị như cái chết
Anh làm cho đứt dây khúc tình cay nghiệt
Vờ vĩnh để làm chi – một nửa cây đàn!
Chỉ con chó không hiểu – nó què quặt, xù lông
Em và anh cứ vẽ vời để làm chi không biết.
Anh kéo về mình – nó kêu bên cửa nhà em thút thít
Còn em thả nó ra – nó rên ừ ừ bên cửa nhà anh.
Có lẽ sẽ cuồng điên rồi sẽ chạy loăng quăng
Con chó đa cảm đa sầu, mi quả là trẻ lắm
Nhưng ta không cho phép mình làm người đa cảm
Hễ tiếp tục đớn đau – sẽ kéo đến cuối cùng.
Làm người đa cảm không phải yếu hèn, mà tội lỗi
Khi lại vẫn mềm lòng thì lại vẫn hứa suông
Rên ư ử, khừ khừ rồi lại hình dung
Với tên gọi dại khờ rằng “Tình cứu rỗi”.
Cứu tình yêu là trong những ngày đầu tiên, với
“Không bao giờ!” của nhiệt huyết, “mãi mãi!” của trẻ con.
“Không cần hứa!” – tiếng những con tàu vang lên
“Không cần hứa!” – tiếng những dây diện thoại.
Cành chớm gãy và u ám giữa trời xanh
Cảnh báo cho ta, những con người ít học
Rằng lạc quan tràn đầy là do không hiểu biết
Rằng vô vọng mới là điều hy vọng đáng tin.
Nhân đạo hơn là làm người tỉnh táo và cân
Và hỏi kỹ trước khi đeo vào – đó là qui luật
Đừng hứa gì trời xanh, nhưng hãy trao dù chút đất
Không đến ngày xuống mồ, nhưng dù khoảnh khắc rất cần.
Nhân đạo hơn là đừng nói “em yêu…” khi yêu anh
Kẻo rồi thật nặng nề, từ những bờ môi ấy
Nghe những lời trống không, buồn cười, giả dối
Và nghe dối gian như cả thế giới hoang tàn.
Không cần hứa… Tình – là không thể thi hành
Gian dối để làm chi, cũng giống như vương miện
Ảo ảnh là hay, một khi ảo ảnh chưa tan biến
Nhân đạo hơn là đừng yêu, kẻo sau đấy – cuối cùng.
Con chó kêu rên đến rối loạn tâm thần
Đập cửa nhà anh, rồi bên cửa nhà em ư ử.
Vì đã hết yêu, anh không hề xin em tha thứ
Chỉ tha thứ cho anh vì một thuở đã yêu em.
Я разлюбил тебя... Банальная развязка
Я разлюбил тебя... Банальная развязка.
Банальная, как жизнь, банальная, как смерть.
Я оборву струну жестокого романса,
гитару пополам — к чему ломать комедь!
Лишь не понять щенку — лохматому уродцу,
чего ты так мудришь, чего я так мудрю.
Его впущу к себе — он в дверь твою скребется,
а впустишь ты его — скребется в дверь мою.
Пожалуй, можно так с ума сойти, метаясь...
Сентиментальный пес, ты попросту юнец.
Но не позволю я себе сентиментальность.
Как пытку продолжать — затягивать конец.
Сентиментальным быть не слабость — преступленье,
когда размякнешь вновь, наобещаешь вновь
и пробуешь, кряхтя, поставить представленье
с названием тупым «Спасенная любовь».
Спасать любовь пора уже в самом начале
от пылких «никогда!», от детских «навсегда!».
«Не надо обещать!» — нам поезда кричали,
«Не надо обещать!» — мычали провода.
Надломленность ветвей и неба задымленность
предупреждали нас, зазнавшихся невежд,
что полный оптимизм — есть неосведомленность,
что без больших надежд — надежней для надежд.
Гуманней трезвым быть и трезво взвесить звенья,
допрежь чем их надеть,— таков закон вериг.
Не обещать небес, но дать хотя бы землю.
До гроба не сулить, но дать хотя бы миг.
Гуманней не твердить «люблю...», когда ты любишь.
Как тяжело потом из этих самых уст
услышать звук пустой, вранье, насмешку, грубость,
и ложно полный мир предстанет ложно пуст.
Не надо обещать... Любовь — неисполнимость.
Зачем же под обман вести, как под венец?
Виденье хорошо, пока не испарилось.
Гуманней не любить, когда потом — конец.
Скулит наш бедный пес до умопомраченья,
то лапой в дверь мою, то в дверь твою скребя.
За то, что разлюбил, я не прошу прощенья.
Прости меня за то, что я любил тебя.
EM TO LỚN TRONG TÌNH
Em to lớn trong tình.
Em gan dạ.
Còn anh rụt rè sau mỗi bước chân.
Điều tồi tệ cho em anh chẳng làm
còn tốt đẹp chắc gì anh có thể.
Tất cả như trong rừng
anh cứ ngỡ
em dẫn anh đi không theo một lối mòn.
Trong hoa cỏ ngập đến tận thắt lưng.
Anh không hiểu hoa có tên gì vậy.
Không dùng được những thói quen ngày ấy.
Anh không biết rằng anh phải làm sao.
Em mỏi mệt.
Cần bàn tay trao nhau.
Và ngã vào trong lòng anh khi đó.
“Anh có thấy,
trời hôm nay xanh thế?
Và có nghe
chim hót ở trong rừng?
Nào anh yêu?
Nào anh?
Hãy bế em!”
Bế em đi đâu anh không biết?…
1953
Ты большая в любви
Ты большая в любви.
Ты смелая.
Я - робею на каждом шагу.
Я плохого тебе не сделаю,
а хорошее вряд ли смогу.
Все мне кажется,
будто бы по лесу
без тропинки ведешь меня ты.
Мы в дремучих цветах до пояса.
Не пойму я -
что за цветы.
Не годятся все прежние навыки.
Я не знаю,
что делать и как.
Ты устала.
Ты просишься на руки.
Ты уже у меня на руках.
"Видишь,
небо какое синее?
Слышишь,
птицы какие в лесу?
Ну так что же ты?
Ну?
Неси меня!
А куда я тебя понесу?..
KHI GƯƠNG MẶT CỦA EM XUẤT HIỆN
Khi gương mặt của em xuất hiện
trước cuộc đời rất nhàu nát của anh
khi đó, đầu tiên anh chỉ nghĩ rằng
những gì anh có, tất cả đều thiếu thốn.
Nhưng những cánh rừng, dòng sông và biển
gương mặt em đặc biệt chiếu sáng lên
màu sắc cuộc đời gương mặt hiến dâng
chỉ riêng anh thì không hề dâng hiến.
Anh sợ lắm, lúc này anh sợ lắm
sợ vầng đông không đợi sẽ tận cùng
tận cùng mở đầu, nước mắt, hân hoan
nhưng nỗi sợ không thể nào kìm nén.
Anh nhớ lại – chính cái điều khiếp đảm
là tình yêu. Và nỗi sợ nâng niu
dù anh không biết rằng phải chiều theo
và tình yêu canh chừng không cẩn thận.
Bằng nỗi sợ anh cầm lên chiếc nhẫn.
Khoảnh khắc này – anh biết – ngắn ngủi thôi
với anh biến mất màu sắc cuộc đời
khi gương mặt em trước anh xuất hiện…
1960
Когда взошло твое лицо
Когда взошло твое лицо
над жизнью скомканной моею,
вначале понял я лишь то,
как скудно все, что я имею.
Но рощи, реки и моря
оно особо осветило
и в краски мира посвятило
непосвященного меня.
Я так боюсь, я так боюсь
конца нежданного восхода,
конца открытий, слез, восторга,
но с этим страхом не борюсь.
Я помню - этот страх
и есть любовь. Его лелею,
хотя лелеять не умею,
своей любви небрежный страж.
Я страхом этим взят в кольцо.
Мгновенья эти - знаю - кратки,
и для меня исчезнут краски,
когда зайдет твое лицо...
VỀ NHỮNG BẢN DỊCH
Bạn đừng sợ gì bản dịch tự do
Không gì tự do, nếu như yêu mến.
Nhưng nếu như nhạc của thơ làm hỏng
Thì bạn làm đứt đoạn cả ý thơ.
Tôi không khen vẻ khôn khéo dối lừa
Mà tôi khen những nhà thơ được phép
Có sự chính xác ngây thơ tội nghiệp
Và chi ly của sáng tạo thơ ca.
Đừng tự gò mình, những kẻ ngây thơ
Hãy để cho nhiều tự do và nhạc
Tôi đơn giản không tin vào bản dịch
Mà tôi chỉ tin ở những bài thơ.
Từng say sưa bằng giấc mơ của lửa
Chén cổ xưa đã từng đem hắt té
Chiếc chén rót đầy thứ rượu thiêng liêng.
О переводах
Не страшен вольный перевод
Ничто не вольно, если любишь.
Но если музыку погубишь,
То это мысль всю переврет.
Я не за ловкость шулеров,
Я за поэтов правомочность
Есть точность жалких школяров
Но есть и творческая точность.
Не дай школярством себя стеснить
Побольше музыки, свободы!
Я верю в стихи
Не верю в просто переводы.
ĐỪNG BIẾN MẤT
Em đừng biến mất… Khi biến mất khỏi anh
Không còn hiện thân, em khỏi mình biến mất
Em phụ bạc chính mình muôn đời muôn kiếp
Đấy là điều gian dối nhất đó em.
Em đừng biến mất… Biến mất – thật dễ dàng.
Hồi sinh cho nhau mới là điều không thể.
Cái chết lôi kéo ta vào sâu xa đến thế.
Làm người chết dù khoảnh khắc – là bất cẩn đó em.
Em đừng biến mất… Chiếc bóng thứ ba hãy quên
Trong tình yêu chỉ hai người. Kẻ thứ ba không có.
Anh và em sẽ trinh bạch trong ngày phán xử
Khi những tiếng kèn gióng giả gọi ta lên.
Em đừng biến mất… Ta đã chuộc lỗi lầm
Ta không là phạm nhân, không có điều cấm đoán.
Với những sự tha thứ ta hoàn toàn xứng đáng
Những kẻ do vô tình đã chịu những đau thương.
Em đừng biến mất. Có thể giây phút thôi em
Nhưng làm sao sau này ở trăm năm gặp lại?
Liệu trên đời có người giống hệt em như vậy
Và giống hệt như anh? Chỉ trong cháu trong con.
Em đừng biến mất. Hãy đưa tay cho anh.
Tên anh ghi ở đây – anh rất tin điều đó.
Tình yêu cuối có một điều đáng sợ
Là không phải tình mà sợ mất mát đó em.
Не исчезай
Не исчезай... Исчезнув из меня,
развоплотясь, ты из себя исчезнешь,
себе самой навеки изменя,
и это будет низшая нечестность.
Не исчезай... Исчезнуть — так легко.
Воскреснуть друг для друга невозможно.
Смерть втягивает слишком глубоко.
Стать мертвым хоть на миг — неосторожно.
Не исчезай... Забудь про третью тень.
В любви есть только двое. Третьих нету.
Чисты мы будем оба в Судный день,
когда нас трубы призовут к ответу.
Не исчезай... Мы искупили грех.
Мы оба неподсудны, невозбранны.
Достойны мы с тобой прощенья тех,
кому невольно причинили раны.
Не исчезай. Исчезнуть можно вмиг,
но как нам после встретиться в столетьях?
Возможен ли на свете твой двойник
и мой двойник? Лишь только в наших детях.
Не исчезай. Дай мне свою ладонь.
На ней написан я — я в это верю.
Тем и страшна последняя любовь,
что это не любовь, а страх потери.
ANH ĐÃ NÓI
Anh đã nói biết bao nhiêu lời khôn
Biết bao lần lên vai em ve vuốt
Còn em đã khóc giống như con nít
Rằng anh không hề muốn được yêu em.
Em chạy lao ra gió, ra mưa giông
Như anh không hề van em ở lại.
Chiếc ô đen khi giơ lên cao ấy
Khi tay em kéo lệch phía bên mình.
Và có vẻ như chìm vào lãng quên
Có vẻ điều này trở nên trống vắng
Đấy là thân thể trẻ con thanh mảnh
Đấy là thân hình mảnh dẻ của em.
Và những máng nước ầm ĩ xung quanh
Tựa hồ như ánh sáng từng gào thét:
“Ta tàn nhẫn, ta khắt khe, độc ác
Vì điều này nên chẳng có khoan dung”.
Tất cả tàn nhẫn – và mái, và tường
Và một điều không phải là vô cớ
Những ăng-ten truyền hình khắp thành phố
Như thiếu Giê-su mà có sự đóng đinh.
Много слов говорил умудренных
Много слов говорил умудренных,
много гладил тебя по плечу,
а ты плакала, словно ребенок,
что тебя полюбить не хочу.
И рванулась ты к ливню и к ветру,
как остаться тебя ни просил.
Черный зонт то тянул тебя кверху,
то, захлопавши, вбок относил.
И как будто оно опустело,
погруженное в забытье,
это детское тонкое тело,
это хрупкое тело твое.
И кричали вокруг водостоки,
словно криком кричал белый свет:
"Мы жестоки, жестоки, жестоки,
и за это пощады нам нет".
Все жестоко - и крыши, и стены,
и над городом неспроста
телевизорные антенны,
как распятия без Христа...
LỜI CẦU KHẨN
Đêm mùa xuân em hãy nghĩ về anh
Và đêm mùa hè hãy nghĩ về anh
Đêm mùa thu em hãy nghĩ về anh
Và đêm mùa đông em hãy nghĩ về anh.
Dù anh không ở cùng em, mà đâu đó
Người xa xôi, như người trong xứ lạ -
Trên tấm ga trải giường dài và mát mẻ
Hãy nghỉ ngơi, như giữa biển trên lưng
Thả mình như con sóng chậm, dịu êm
Chỉ hai người, với anh, như biển cả.
Anh không muốn em suy nghĩ ban ngày
Cứ để ngày tất cả đem lộn ngược
Xông bằng khói và rượu vang đem rót
Bắt nghĩ về một điều khác hoàn toàn.
Ban ngày cứ nghĩ điều gì mong ước
Còn ban đêm – em chỉ nghĩ về anh.
Em nghe qua tiếng con tàu vang lên
Qua ngọn gió, tan từng mảnh mây đen
Anh – người đã rơi vào vòng tù hãm
Muốn trong phòng, nơi hẹp những bức tường
Em nheo mắt vì hạnh phúc, đau buồn
Ép bàn tay vào thái dương đau đớn.
Anh van em – trong tận cùng tĩnh lặng
Hay dưới cơn mưa ầm ĩ trên trời
Hay dưới tuyết, trên cửa sổ sáng ngời
Đã trong mơ và chưa hề trong mộng –
Đêm mùa xuân em hãy nghĩ về anh
Đêm mùa hè em hãy nghĩ về anh
Đêm mùa thu em hãy nghĩ về anh
Đêm mùa đông em hãy nghĩ về anh.
Весенней ночью думай обо мне
Весенней ночью думай обо мне
и летней ночью думай обо мне,
осенней ночью думай обо мне
и зимней ночью думай обо мне.
Пусть я не там с тобой, а где-то вне,
такой далекий, как в другой стране,—
на длинной и прохладной простыне
покойся, словно в море на спине,
отдавшись мягкой медленной волне,
со мной, как с морем, вся наедине.
Я не хочу, чтоб думала ты днем.
Пусть день перевернет все кверху дном,
окурит дымом и зальет вином,
заставит думать о совсем ином.
О чем захочешь, можешь думать днем,
а ночью — только обо мне одном.
Услышь сквозь паровозные свистки,
сквозь ветер, тучи рвущий на куски,
как надо мне, попавшему в тиски,
чтоб в комнате, где стены так узки,
ты жмурилась от счастья и тоски,
до боли сжав ладонями виски.
Молю тебя — в тишайшей тишине,
или под дождь, шумящий в вышине,
или под снег, мерцающий в окне,
уже во сне и все же не во сне —
весенней ночью думай обо мне
и летней ночью думай обо мне,
осенней ночью думай обо мне
и зимней ночью думай обо мне.
KHÔNG CẦN MỘT NỬA
Không, những thứ gì một nửa tôi không cần!
Cho tôi cả bầu trời! Đủ đầy mặt đất!
Cả sông, biển, vẹn toàn bao dòng thác
Tôi không bằng lòng những thứ chia phân.
Không, cuộc sống đừng đem cho tôi từng phần.
Tất cả vẹn toàn! Điều này tôi đủ sức
Tôi không muốn một nửa niềm hạnh phúc
Mà cũng không một nửa nỗi đau thương.
Có chăng chỉ là nửa chiếc gối êm
Nơi em áp má vào một cách cẩn trọng
Và chiếc nhẫn trên tay em lấp lánh
Ngôi sao mờ, ngôi sao rụng trong đêm.
Нет, мне ни в чем не надо половины
Нет, мне ни в чем не надо половины!
Мне – дай все небо! Землю всю положь!
Моря и реки, горные лавины
Мои – не соглашаюсь на дележ!
Нет, жизнь, меня ты не заластишь частью.
Все полностью! Мне это по плечу!
Я не хочу ни половины счастья,
Ни половины горя не хочу!
Хочу лишь половину той подушки,
Где, бережно прижатое к щеке,
Беспомощной звездой, звездой падучей
Кольцо мерцает на твоей руке.
EM ĐỪNG VỘI
Em hãy vội vàng, vội vàng đến với anh
Nếu anh một mình, nếu anh khó ở.
Nếu anh tựa trong giấc mơ đáng sợ
Tai họa rập rình trên cửa sổ anh.
Em hãy vội vàng khi người xúc phạm
Em hãy vội khi anh cần người bạn
Em hãy vội khi anh buồn lặng im
Thì em nhé, em nhé, hãy vội vàng!
Và đừng vội, đừng vội, một khi mà
Mình hai đứa, tai họa ở rất xa
Những chiếc lá, dòng nước đang nói “có”
Và những ngôi sao, con tàu, ánh lửa…
Em đừng vội, khi mắt trong mắt nhau
Em đừng vội, khi chẳng vội đi đâu
Hãy lắng nghe đêm, hãy lặng ngừng, đừng vội
Em đừng vội, khi chẳng vội đi đâu…
Не спеши
Ты спеши, ты спеши ко мне
Если я один, если трудно мне.
Если я, словно в страшном сне,
Если тень беды в моем окне.
Ты спеши, когда обидят вдруг,
Ты спеши, когда мне нужен друг,
Ты спеши, когда грущу в тиши,
Ты спеши, ты спеши!
Не спеши, не спеши, когда
Мы с тобой вдвоем и вдали беда,
Скажут "да" листья и вода,
Звезды, и огни, и поезда...
Не спеши, когда глаза в глаза,
Не спеши, когда спешить нельзя,
Слушай ночь, замри и не спеши,
Не спеши, не спеши...
Luôn luôn tìm một bàn tay phụ nữ
Một bàn tay rất mát mẻ, nhẹ nhàng
Một chút yêu yêu, một chút thương thương
Như một người em bàn tay ấp ủ.
Luôn luôn tìm một bờ vai phụ nữ
Để trong bờ vai hơi thở nóng bừng
Để khi mái đầu phóng đãng ấp lên
Sẽ tin tưởng trao bờ vai giấc ngủ.
Luôn luôn tìm một đôi mắt phụ nữ
Để làm tiêu tan đau khổ của mình
Nếu không tất cả, thì dù một phần
Những con mắt sẽ nhìn ra đau khổ.
Nhưng cũng có một bàn tay phụ nữ
Một bàn tay đặc biệt, rất ngọt ngào
Khi lên vầng trán mệt mỏi chạm vào
Giống như vĩnh hằng, giống như phận số.
Nhưng cũng có một bờ vai phụ nữ
Một bờ vai không hiểu tại vì đâu
Không cho một đêm, không cho dài lâu
Và điều này từ lâu anh đã rõ.
Nhưng cũng có một đôi mắt phụ nữ
Một đôi mắt luôn nhìn ngó rất buồn
Và chuyện này cho đến ngày cuối cùng
Con mắt của tình, của lương tâm anh đó.
Còn anh sống trái ngược với đời anh
Và ít ỏi một bàn tay phụ nữ
Một bờ vai, một đôi mắt buồn bã
Mà trong đời, anh phụ bạc bao lần!
Thì sự trừng phạt sẽ đến với anh
“Kẻ phụ tình!” – mưa vào anh sẽ đập
“Kẻ phụ tình!” – cành lá quất lên mặt
“Kẻ phụ tình!” – tiếng vọng giữa rừng xanh.
Anh trằn trọc, anh đau khổ, anh buồn
Và tất cả cho mình không tha thứ.
Nhưng chỉ bàn tay của người phụ nữ
Tha thứ cho anh, dù có phật lòng.
Và chỉ bờ vai mòn mỏi chờ trông
Tha thứ bây giờ và còn tha thứ nữa
Và chỉ có đôi mắt ai buồn bã
Tha thứ cho anh cả những thứ không nên…
1961
Всегда найдется женская рука
Всегда найдется женская рука,
чтобы она, прохладна и легка,
жалея и немножечко любя,
как брата, успокоила тебя.
Всегда найдется женское плечо,
чтобы в него дышал ты горячо,
припав к нему беспутной головой,
ему доверив сон мятежный свой.
Всегда найдутся женские глаза,
чтобы они, всю боль твою глуша,
а если и не всю, то часть ее,
увидели страдание твое.
Но есть такая женская рука,
которая особенно сладка,
когда она измученного лба
касается, как вечность и судьба.
Но есть такое женское плечо,
которое неведомо за что
не на ночь, а навек тебе дано,
и это понял ты давным-давно.
Но есть такие женские глаза,
которые глядят всегда грустя,
и это до последних твоих дней
глаза любви и совести твоей.
А ты живешь себе же вопреки,
и мало тебе только той руки,
того плеча и тех печальных глаз...
Ты предавал их в жизни столько раз!
И вот оно - возмездье - настает.
"Предатель!"- дождь тебя наотмашь бьет.
"Предатель!"- ветки хлещут по лицу.
"Предатель!"- эхо слышится в лесу.
Ты мечешься, ты мучишься, грустишь.
Ты сам себе все это не простишь.
И только та прозрачная рука
простит, хотя обида и тяжка,
и только то усталое плечо
простит сейчас, да и простит еще,
и только те печальные глаза
простят все то, чего прощать нельзя...
TƯỞNG NHỚ AKHMATOVA
Akhmatova là người của hai thời
Có vẻ như về nàng không nên khóc
Nàng đã sống, có vẻ không tin được
Lại không thể tin nàng đã qua đời.
Nàng ra đi, giống như một bài ca
Đi vào sâu thẳm của khu vườn tối
Nàng ra đi, có vẻ như mãi mãi
Từ Leningrad trở về Pê-téc-bua.
Nàng gắn chặt với cả hai thời gian
Giữa tâm điểm của sương và của bóng
Nếu Puskin là mặt trời, thì nàng
Trong thơ ca – sẽ mãi là đêm trắng.
Trên cái chết, bất tử, ngoài tất cả
Nàng đã nằm – có lẽ nói thế này:
Không phải trong hiện tại, mà trên nó
Nàng đã nằm giữa quá khứ, tương lai.
Và quá khứ bên quan tài im lặng
Không như của người sống hợp ý trời.
Bờm tóc bạc sáng sủa và kiêu hãnh
Lấp lánh từ những chíêc mũ lỗi thời.
Vâng, thời gian làm đổi thay đường nét
Những con người thời đó ở nước Nga
Nhưng đôi mắt họ – ánh sáng nhân từ –
Chẳng gió xoáy hay sương nào dập tắt.
Tương lai yếu đuối trên những đôi vai
Những cậu bé đi đến trường đã đốt
Ngọn lửa học trò trong từng đôi mắt
Những cuốn vở con nắm chặt trong tay.
Và những cô bé trong cặp của mình
Có lẽ mang nhật ký và danh mục
Họ vẫn thế – thiêng liêng và hạnh phúc
Vẫn ngây thơ như ngày ấy nữ sinh.
Sự sụp đổ toàn cầu, xin đừng để
Mất đi mối liên hệ của thời gian
Vì không thể hai nước Nga – điều giản đơn
Cũng như hai Akhmatova, không thể.
Памяти Ахматовой
Ахматова двувременной была.
О ней и плакать как-то не пристало.
Не верилось, когда она жила,
не верилось, когда ее не стало.
Она ушла, как будто бы напев
уходит в глубь темнеющего сада.
Она ушла, как будто бы навек
вернулась в Петербург из Ленинграда.
Она связала эти времена
в туманно-теневое средоточье,
и если Пушкин — солнце,
то она в поэзии пребудет белой ночью.
Над смертью и бессмертьем, вне всего,
она лежала, как бы между прочим,
не в настоящем, а поверх него,
лежала между будущим и прошлым.
И прошлое у гроба тихо шло
не вереницей дам богоугодных.
Седые челки гордо и светло
мерцали из-под шляпок старомодных.
Да, изменило время их черты,
красавиц той, когдатошней России,
но их глаза — лампады доброты —
ни крутоверть, ни мгла не загасили.
Шло будущее, слабое в плечах.
Шли мальчики. Они себя сжигали
пожаром гимназическим в очах
и в кулаках тетрадочки сжимали.
И девочки в портфельчиках своих
несли, наверно, дневники и списки.
Все те же — из Блаженных и святых —
наивные российские курсистки.
И ты, распад всемирный, не убий
ту связь времен, — она еще поможет.
Ведь просто быть не может двух Россий,
как быть и двух Ахматовых не может.
NHỮNG CON NGƯỜI
Người tẻ nhạt trên đời không hề có
Số phận như lịch sử những hành tinh.
Mỗi hành tinh có đặc điểm của mình
Và chẳng có hành tinh nào giống nó.
Nếu như ai đấy sống đời lặng lẽ
Với vẻ ít ai để ý của mình
Thì người này với những kẻ xung quanh
Hay ở cái không có gì đáng nhớ.
Mỗi con người bí ẩn và riêng lẻ.
Có trong đời một khoảnh khắc tuyệt vời.
Có một giờ phút khủng khiếp trong đời.
Nhưng chúng ta đều không ai biết rõ.
Và nếu con người trần gian từ giã
Bông tuyết đầu của người ấy đi theo
Trận đánh đầu tiên và nụ hôn đầu…
Con người này mang theo mình tất cả.
Chỉ còn lại những cây cầu, sách vở
Những máy móc và cả những bức tranh
Có nhiều thứ phải bỏ lại sau mình
Nhưng vẫn mất đi một điều gì đó.
Luật trò chơi không tiếc thương như thế
Không phải người, mà thế giới mất đi.
Ta nhớ người trần lầm lỗi thế kia
Nhưng sâu xa ta biết gì về họ?
Và cả bạn bè, cả anh em nữa?
Ta biết về người duy nhất của mình?
Và ngay người cha ruột thịt của mình
Ta biết hết, mà không hề biết rõ.
Người ra đi… không còn quay về nữa
Không hồi sinh những thế giới bí huyền.
Cứ mỗi lần tôi lại muốn kêu lên
Vì cuộc đời chỉ đi về một phía…
Людей неинтересных в мире нет
Людей неинтересных в мире нет.
Их судьбы — как истории планет.
У каждой все особое, свое,
и нет планет, похожих на нее.
А если кто-то незаметно жил
и с этой незаметностью дружил,
он интересен был среди людей
самой неинтересностью своей.
У каждого — свой тайный личный мир.
Есть в мире этом самый лучший миг.
Есть в мире этом самый страшный час,
но это все неведомо для нас.
И если умирает человек,
с ним умирает первый его снег,
и первый поцелуй, и первый бой...
Все это забирает он с собой.
Да, остаются книги и мосты,
машины и художников холсты,
да, многому остаться суждено,
но что-то ведь уходит все равно!
Таков закон безжалостной игры.
Не люди умирают, а миры.
Людей мы помним, грешных и земных.
А что мы знали, в сущности, о них?
Что знаем мы про братьев, про друзей,
что знаем о единственной своей?
И про отца родного своего
мы, зная все, не знаем ничего.
Уходят люди... Их не возвратить.
Их тайные миры не возродить.
И каждый раз мне хочется опять
от этой невозвратности кричать.
ANH ĐÃ HẾT YÊU EM
Anh đã hết yêu em… một kết cục tầm thường
Vô vị như cuộc đời, vô vị như cái chết
Anh làm cho đứt dây khúc tình cay nghiệt
Vờ vĩnh để làm chi – một nửa cây đàn!
Chỉ con chó không hiểu – nó què quặt, xù lông
Em và anh cứ vẽ vời để làm chi không biết.
Anh kéo về mình – nó kêu bên cửa nhà em thút thít
Còn em thả nó ra – nó rên ừ ừ bên cửa nhà anh.
Có lẽ sẽ cuồng điên rồi sẽ chạy loăng quăng
Con chó đa cảm đa sầu, mi quả là trẻ lắm
Nhưng ta không cho phép mình làm người đa cảm
Hễ tiếp tục đớn đau – sẽ kéo đến cuối cùng.
Làm người đa cảm không phải yếu hèn, mà tội lỗi
Khi lại vẫn mềm lòng thì lại vẫn hứa suông
Rên ư ử, khừ khừ rồi lại hình dung
Với tên gọi dại khờ rằng “Tình cứu rỗi”.
Cứu tình yêu là trong những ngày đầu tiên, với
“Không bao giờ!” của nhiệt huyết, “mãi mãi!” của trẻ con.
“Không cần hứa!” – tiếng những con tàu vang lên
“Không cần hứa!” – tiếng những dây diện thoại.
Cành chớm gãy và u ám giữa trời xanh
Cảnh báo cho ta, những con người ít học
Rằng lạc quan tràn đầy là do không hiểu biết
Rằng vô vọng mới là điều hy vọng đáng tin.
Nhân đạo hơn là làm người tỉnh táo và cân
Và hỏi kỹ trước khi đeo vào – đó là qui luật
Đừng hứa gì trời xanh, nhưng hãy trao dù chút đất
Không đến ngày xuống mồ, nhưng dù khoảnh khắc rất cần.
Nhân đạo hơn là đừng nói “em yêu…” khi yêu anh
Kẻo rồi thật nặng nề, từ những bờ môi ấy
Nghe những lời trống không, buồn cười, giả dối
Và nghe dối gian như cả thế giới hoang tàn.
Không cần hứa… Tình – là không thể thi hành
Gian dối để làm chi, cũng giống như vương miện
Ảo ảnh là hay, một khi ảo ảnh chưa tan biến
Nhân đạo hơn là đừng yêu, kẻo sau đấy – cuối cùng.
Con chó kêu rên đến rối loạn tâm thần
Đập cửa nhà anh, rồi bên cửa nhà em ư ử.
Vì đã hết yêu, anh không hề xin em tha thứ
Chỉ tha thứ cho anh vì một thuở đã yêu em.
Я разлюбил тебя... Банальная развязка
Я разлюбил тебя... Банальная развязка.
Банальная, как жизнь, банальная, как смерть.
Я оборву струну жестокого романса,
гитару пополам — к чему ломать комедь!
Лишь не понять щенку — лохматому уродцу,
чего ты так мудришь, чего я так мудрю.
Его впущу к себе — он в дверь твою скребется,
а впустишь ты его — скребется в дверь мою.
Пожалуй, можно так с ума сойти, метаясь...
Сентиментальный пес, ты попросту юнец.
Но не позволю я себе сентиментальность.
Как пытку продолжать — затягивать конец.
Сентиментальным быть не слабость — преступленье,
когда размякнешь вновь, наобещаешь вновь
и пробуешь, кряхтя, поставить представленье
с названием тупым «Спасенная любовь».
Спасать любовь пора уже в самом начале
от пылких «никогда!», от детских «навсегда!».
«Не надо обещать!» — нам поезда кричали,
«Не надо обещать!» — мычали провода.
Надломленность ветвей и неба задымленность
предупреждали нас, зазнавшихся невежд,
что полный оптимизм — есть неосведомленность,
что без больших надежд — надежней для надежд.
Гуманней трезвым быть и трезво взвесить звенья,
допрежь чем их надеть,— таков закон вериг.
Не обещать небес, но дать хотя бы землю.
До гроба не сулить, но дать хотя бы миг.
Гуманней не твердить «люблю...», когда ты любишь.
Как тяжело потом из этих самых уст
услышать звук пустой, вранье, насмешку, грубость,
и ложно полный мир предстанет ложно пуст.
Не надо обещать... Любовь — неисполнимость.
Зачем же под обман вести, как под венец?
Виденье хорошо, пока не испарилось.
Гуманней не любить, когда потом — конец.
Скулит наш бедный пес до умопомраченья,
то лапой в дверь мою, то в дверь твою скребя.
За то, что разлюбил, я не прошу прощенья.
Прости меня за то, что я любил тебя.
Em to lớn trong tình.
Em gan dạ.
Còn anh rụt rè sau mỗi bước chân.
Điều tồi tệ cho em anh chẳng làm
còn tốt đẹp chắc gì anh có thể.
Tất cả như trong rừng
anh cứ ngỡ
em dẫn anh đi không theo một lối mòn.
Trong hoa cỏ ngập đến tận thắt lưng.
Anh không hiểu hoa có tên gì vậy.
Không dùng được những thói quen ngày ấy.
Anh không biết rằng anh phải làm sao.
Em mỏi mệt.
Cần bàn tay trao nhau.
Và ngã vào trong lòng anh khi đó.
“Anh có thấy,
trời hôm nay xanh thế?
Và có nghe
chim hót ở trong rừng?
Nào anh yêu?
Nào anh?
Hãy bế em!”
Bế em đi đâu anh không biết?…
1953
Ты большая в любви
Ты большая в любви.
Ты смелая.
Я - робею на каждом шагу.
Я плохого тебе не сделаю,
а хорошее вряд ли смогу.
Все мне кажется,
будто бы по лесу
без тропинки ведешь меня ты.
Мы в дремучих цветах до пояса.
Не пойму я -
что за цветы.
Не годятся все прежние навыки.
Я не знаю,
что делать и как.
Ты устала.
Ты просишься на руки.
Ты уже у меня на руках.
"Видишь,
небо какое синее?
Слышишь,
птицы какие в лесу?
Ну так что же ты?
Ну?
Неси меня!
А куда я тебя понесу?..
KHI GƯƠNG MẶT CỦA EM XUẤT HIỆN
Khi gương mặt của em xuất hiện
trước cuộc đời rất nhàu nát của anh
khi đó, đầu tiên anh chỉ nghĩ rằng
những gì anh có, tất cả đều thiếu thốn.
Nhưng những cánh rừng, dòng sông và biển
gương mặt em đặc biệt chiếu sáng lên
màu sắc cuộc đời gương mặt hiến dâng
chỉ riêng anh thì không hề dâng hiến.
Anh sợ lắm, lúc này anh sợ lắm
sợ vầng đông không đợi sẽ tận cùng
tận cùng mở đầu, nước mắt, hân hoan
nhưng nỗi sợ không thể nào kìm nén.
Anh nhớ lại – chính cái điều khiếp đảm
là tình yêu. Và nỗi sợ nâng niu
dù anh không biết rằng phải chiều theo
và tình yêu canh chừng không cẩn thận.
Bằng nỗi sợ anh cầm lên chiếc nhẫn.
Khoảnh khắc này – anh biết – ngắn ngủi thôi
với anh biến mất màu sắc cuộc đời
khi gương mặt em trước anh xuất hiện…
1960
Когда взошло твое лицо
Когда взошло твое лицо
над жизнью скомканной моею,
вначале понял я лишь то,
как скудно все, что я имею.
Но рощи, реки и моря
оно особо осветило
и в краски мира посвятило
непосвященного меня.
Я так боюсь, я так боюсь
конца нежданного восхода,
конца открытий, слез, восторга,
но с этим страхом не борюсь.
Я помню - этот страх
и есть любовь. Его лелею,
хотя лелеять не умею,
своей любви небрежный страж.
Я страхом этим взят в кольцо.
Мгновенья эти - знаю - кратки,
и для меня исчезнут краски,
когда зайдет твое лицо...
VỀ NHỮNG BẢN DỊCH
Bạn đừng sợ gì bản dịch tự do
Không gì tự do, nếu như yêu mến.
Nhưng nếu như nhạc của thơ làm hỏng
Thì bạn làm đứt đoạn cả ý thơ.
Tôi không khen vẻ khôn khéo dối lừa
Mà tôi khen những nhà thơ được phép
Có sự chính xác ngây thơ tội nghiệp
Và chi ly của sáng tạo thơ ca.
Đừng tự gò mình, những kẻ ngây thơ
Hãy để cho nhiều tự do và nhạc
Tôi đơn giản không tin vào bản dịch
Mà tôi chỉ tin ở những bài thơ.
Từng say sưa bằng giấc mơ của lửa
Chén cổ xưa đã từng đem hắt té
Chiếc chén rót đầy thứ rượu thiêng liêng.
О переводах
Не страшен вольный перевод
Ничто не вольно, если любишь.
Но если музыку погубишь,
То это мысль всю переврет.
Я не за ловкость шулеров,
Я за поэтов правомочность
Есть точность жалких школяров
Но есть и творческая точность.
Не дай школярством себя стеснить
Побольше музыки, свободы!
Я верю в стихи
Не верю в просто переводы.
ĐỪNG BIẾN MẤT
Em đừng biến mất… Khi biến mất khỏi anh
Không còn hiện thân, em khỏi mình biến mất
Em phụ bạc chính mình muôn đời muôn kiếp
Đấy là điều gian dối nhất đó em.
Em đừng biến mất… Biến mất – thật dễ dàng.
Hồi sinh cho nhau mới là điều không thể.
Cái chết lôi kéo ta vào sâu xa đến thế.
Làm người chết dù khoảnh khắc – là bất cẩn đó em.
Em đừng biến mất… Chiếc bóng thứ ba hãy quên
Trong tình yêu chỉ hai người. Kẻ thứ ba không có.
Anh và em sẽ trinh bạch trong ngày phán xử
Khi những tiếng kèn gióng giả gọi ta lên.
Em đừng biến mất… Ta đã chuộc lỗi lầm
Ta không là phạm nhân, không có điều cấm đoán.
Với những sự tha thứ ta hoàn toàn xứng đáng
Những kẻ do vô tình đã chịu những đau thương.
Em đừng biến mất. Có thể giây phút thôi em
Nhưng làm sao sau này ở trăm năm gặp lại?
Liệu trên đời có người giống hệt em như vậy
Và giống hệt như anh? Chỉ trong cháu trong con.
Em đừng biến mất. Hãy đưa tay cho anh.
Tên anh ghi ở đây – anh rất tin điều đó.
Tình yêu cuối có một điều đáng sợ
Là không phải tình mà sợ mất mát đó em.
Не исчезай
Не исчезай... Исчезнув из меня,
развоплотясь, ты из себя исчезнешь,
себе самой навеки изменя,
и это будет низшая нечестность.
Не исчезай... Исчезнуть — так легко.
Воскреснуть друг для друга невозможно.
Смерть втягивает слишком глубоко.
Стать мертвым хоть на миг — неосторожно.
Не исчезай... Забудь про третью тень.
В любви есть только двое. Третьих нету.
Чисты мы будем оба в Судный день,
когда нас трубы призовут к ответу.
Не исчезай... Мы искупили грех.
Мы оба неподсудны, невозбранны.
Достойны мы с тобой прощенья тех,
кому невольно причинили раны.
Не исчезай. Исчезнуть можно вмиг,
но как нам после встретиться в столетьях?
Возможен ли на свете твой двойник
и мой двойник? Лишь только в наших детях.
Не исчезай. Дай мне свою ладонь.
На ней написан я — я в это верю.
Тем и страшна последняя любовь,
что это не любовь, а страх потери.
ANH ĐÃ NÓI
Anh đã nói biết bao nhiêu lời khôn
Biết bao lần lên vai em ve vuốt
Còn em đã khóc giống như con nít
Rằng anh không hề muốn được yêu em.
Em chạy lao ra gió, ra mưa giông
Như anh không hề van em ở lại.
Chiếc ô đen khi giơ lên cao ấy
Khi tay em kéo lệch phía bên mình.
Và có vẻ như chìm vào lãng quên
Có vẻ điều này trở nên trống vắng
Đấy là thân thể trẻ con thanh mảnh
Đấy là thân hình mảnh dẻ của em.
Và những máng nước ầm ĩ xung quanh
Tựa hồ như ánh sáng từng gào thét:
“Ta tàn nhẫn, ta khắt khe, độc ác
Vì điều này nên chẳng có khoan dung”.
Tất cả tàn nhẫn – và mái, và tường
Và một điều không phải là vô cớ
Những ăng-ten truyền hình khắp thành phố
Như thiếu Giê-su mà có sự đóng đinh.
Много слов говорил умудренных
Много слов говорил умудренных,
много гладил тебя по плечу,
а ты плакала, словно ребенок,
что тебя полюбить не хочу.
И рванулась ты к ливню и к ветру,
как остаться тебя ни просил.
Черный зонт то тянул тебя кверху,
то, захлопавши, вбок относил.
И как будто оно опустело,
погруженное в забытье,
это детское тонкое тело,
это хрупкое тело твое.
И кричали вокруг водостоки,
словно криком кричал белый свет:
"Мы жестоки, жестоки, жестоки,
и за это пощады нам нет".
Все жестоко - и крыши, и стены,
и над городом неспроста
телевизорные антенны,
как распятия без Христа...
LỜI CẦU KHẨN
Đêm mùa xuân em hãy nghĩ về anh
Và đêm mùa hè hãy nghĩ về anh
Đêm mùa thu em hãy nghĩ về anh
Và đêm mùa đông em hãy nghĩ về anh.
Dù anh không ở cùng em, mà đâu đó
Người xa xôi, như người trong xứ lạ -
Trên tấm ga trải giường dài và mát mẻ
Hãy nghỉ ngơi, như giữa biển trên lưng
Thả mình như con sóng chậm, dịu êm
Chỉ hai người, với anh, như biển cả.
Anh không muốn em suy nghĩ ban ngày
Cứ để ngày tất cả đem lộn ngược
Xông bằng khói và rượu vang đem rót
Bắt nghĩ về một điều khác hoàn toàn.
Ban ngày cứ nghĩ điều gì mong ước
Còn ban đêm – em chỉ nghĩ về anh.
Em nghe qua tiếng con tàu vang lên
Qua ngọn gió, tan từng mảnh mây đen
Anh – người đã rơi vào vòng tù hãm
Muốn trong phòng, nơi hẹp những bức tường
Em nheo mắt vì hạnh phúc, đau buồn
Ép bàn tay vào thái dương đau đớn.
Anh van em – trong tận cùng tĩnh lặng
Hay dưới cơn mưa ầm ĩ trên trời
Hay dưới tuyết, trên cửa sổ sáng ngời
Đã trong mơ và chưa hề trong mộng –
Đêm mùa xuân em hãy nghĩ về anh
Đêm mùa hè em hãy nghĩ về anh
Đêm mùa thu em hãy nghĩ về anh
Đêm mùa đông em hãy nghĩ về anh.
Весенней ночью думай обо мне
Весенней ночью думай обо мне
и летней ночью думай обо мне,
осенней ночью думай обо мне
и зимней ночью думай обо мне.
Пусть я не там с тобой, а где-то вне,
такой далекий, как в другой стране,—
на длинной и прохладной простыне
покойся, словно в море на спине,
отдавшись мягкой медленной волне,
со мной, как с морем, вся наедине.
Я не хочу, чтоб думала ты днем.
Пусть день перевернет все кверху дном,
окурит дымом и зальет вином,
заставит думать о совсем ином.
О чем захочешь, можешь думать днем,
а ночью — только обо мне одном.
Услышь сквозь паровозные свистки,
сквозь ветер, тучи рвущий на куски,
как надо мне, попавшему в тиски,
чтоб в комнате, где стены так узки,
ты жмурилась от счастья и тоски,
до боли сжав ладонями виски.
Молю тебя — в тишайшей тишине,
или под дождь, шумящий в вышине,
или под снег, мерцающий в окне,
уже во сне и все же не во сне —
весенней ночью думай обо мне
и летней ночью думай обо мне,
осенней ночью думай обо мне
и зимней ночью думай обо мне.
KHÔNG CẦN MỘT NỬA
Không, những thứ gì một nửa tôi không cần!
Cho tôi cả bầu trời! Đủ đầy mặt đất!
Cả sông, biển, vẹn toàn bao dòng thác
Tôi không bằng lòng những thứ chia phân.
Không, cuộc sống đừng đem cho tôi từng phần.
Tất cả vẹn toàn! Điều này tôi đủ sức
Tôi không muốn một nửa niềm hạnh phúc
Mà cũng không một nửa nỗi đau thương.
Có chăng chỉ là nửa chiếc gối êm
Nơi em áp má vào một cách cẩn trọng
Và chiếc nhẫn trên tay em lấp lánh
Ngôi sao mờ, ngôi sao rụng trong đêm.
Нет, мне ни в чем не надо половины
Нет, мне ни в чем не надо половины!
Мне – дай все небо! Землю всю положь!
Моря и реки, горные лавины
Мои – не соглашаюсь на дележ!
Нет, жизнь, меня ты не заластишь частью.
Все полностью! Мне это по плечу!
Я не хочу ни половины счастья,
Ни половины горя не хочу!
Хочу лишь половину той подушки,
Где, бережно прижатое к щеке,
Беспомощной звездой, звездой падучей
Кольцо мерцает на твоей руке.
EM ĐỪNG VỘI
Em hãy vội vàng, vội vàng đến với anh
Nếu anh một mình, nếu anh khó ở.
Nếu anh tựa trong giấc mơ đáng sợ
Tai họa rập rình trên cửa sổ anh.
Em hãy vội vàng khi người xúc phạm
Em hãy vội khi anh cần người bạn
Em hãy vội khi anh buồn lặng im
Thì em nhé, em nhé, hãy vội vàng!
Và đừng vội, đừng vội, một khi mà
Mình hai đứa, tai họa ở rất xa
Những chiếc lá, dòng nước đang nói “có”
Và những ngôi sao, con tàu, ánh lửa…
Em đừng vội, khi mắt trong mắt nhau
Em đừng vội, khi chẳng vội đi đâu
Hãy lắng nghe đêm, hãy lặng ngừng, đừng vội
Em đừng vội, khi chẳng vội đi đâu…
Не спеши
Ты спеши, ты спеши ко мне
Если я один, если трудно мне.
Если я, словно в страшном сне,
Если тень беды в моем окне.
Ты спеши, когда обидят вдруг,
Ты спеши, когда мне нужен друг,
Ты спеши, когда грущу в тиши,
Ты спеши, ты спеши!
Не спеши, не спеши, когда
Мы с тобой вдвоем и вдали беда,
Скажут "да" листья и вода,
Звезды, и огни, и поезда...
Не спеши, когда глаза в глаза,
Не спеши, когда спешить нельзя,
Слушай ночь, замри и не спеши,
Не спеши, не спеши...
TƯỞNG
NHỚ ESENIN
Những nhà thơ Nga –
======chúng ta chửi bới nhau
Nhóm “Parnasse” Nga vẫn thường cãi cọ
Nhưng tất cả gắn bó bởi một điều
Là một chút Esenin thì ai cũng có.
Và tôi là Esenin
======nhưng hoàn toàn khác.
Con ngựa hồng của tôi đã có tự lúc sinh.
Tôi, cũng như nước Nga, khắc nghiệt nhiều hơn
Và, cũng như nước Nga, bạch dương tôi có ít.
Esenin ơi,
======nước Nga đã đổi thay!
Nhưng than phiền, theo tôi, là uổng phí
Và nói rằng thay đổi tốt lên –
======tôi sợ
Còn nói rằng thay đổi xấu đi –
======cũng thật hiểm nguy…
Những công trường dựng xây
======những vệ tinh khắp đất nước!
Những chúng ta mất mát
======trên con đường chênh vênh
Mất hai mươi triệu người trong chiến tranh với giặc
Và hàng triệu người –
======trong cuộc chiến với nhân dân.
Lãng quên điều này
======thì ký ức chặt đi chăng?
Nhưng biết lấy ở đâu ra búa rìu để chặt?
Không có ai, như người Nga,
======đã cứu bao dân tộc khác
Và chẳng có ai, như người Nga,
vẫn hủy diệt chính mình.
Nhưng con tàu của ta vẫn bơi.
======Khi dòng nước lăn tăn.
Chúng ta vẫn kéo nước Nga đi về phía trước.
Rằng lũ vô lại có thừa,
======không phải điều tai ác
Không có thiên tài –
======mới là thật nguy nan.
Và thật tiếc một điều rằng đã chẳng còn anh
Và đối thủ của anh – kẻ ưa gào thét lớn
Tôi, tất nhiên, không phải quan tòa với các anh
Những dù sao các anh đã ra đi quá sớm.
Khi người lãnh tụ của đoàn thanh niên cộng sản
Giơ nắm đấm
======đập bàn
===========dọa các nhà thơ
Muốn đem tâm hồn của chúng tôi ra để giày vò
Rồi nặn như sáp, ra cái giống mình, theo ý muốn.
Lời người ấy, Esenin à, chúng tôi đâu có ngán
Nhưng vì điều này mà chẳng có được hân hoan
Và tôi không muốn
======anh hãy tin
===========là phải xách quần
Để chạy theo người đoàn viên thanh niên cộng sản*.
Những điều này làm tôi đắng cay và đau đớn
Không còn sức để mà chống lại chuyện tầm phào
Và ở dưới bánh xe cái chết đang kéo vào
Như chiếc khăn kéo Isadora ngày xa vắng.
Nhưng – cần phải sống.
======Không rượu Vodka
======không dây thòng lọng
Không phụ nữ –
======những thứ này có là cứu rỗi đâu anh
Sự cứu rỗi
======là đất đai Nga của mình
Sự chân thành của anh, Esenin,
mới là điều cứu vãn.
Và thơ ca Nga vẫn băng băng tiến
Về phía trước, xuyên qua mọi đả kích, nghi ngờ
Bằng cái ôm choàng của Esenin
======nhấc bổng cả châu Âu
Như đô vật Poddubny**
======bắt chạm vai lên thảm.
___________________
*Trong bài thơ này Evtushenko nhắc đến nhiều hình ảnh đặc trưng trong thơ Esenin cũng như chính cuộc đời nhà thơ. Riêng câu: “xách quần chạy theo người đoàn viên thanh niên cộng sản” thì trong trường ca “Nước Nga đã mất” Esenin đã viết y hệt như vậy: “Chính vì thế mà tôi muốn/ Xách quần lên/ Chạy theo người đoàn viên thanh niên cộng sản” (Знать, оттого так хочется и мне,/ Задрав штаны, /Бежать за комсомолом).
**Ivan Maximovich Poddubny (1871-1949) – đô vật huyền thoại của Nga và Xô Viết.
Những nhà thơ Nga –
======chúng ta chửi bới nhau
Nhóm “Parnasse” Nga vẫn thường cãi cọ
Nhưng tất cả gắn bó bởi một điều
Là một chút Esenin thì ai cũng có.
Và tôi là Esenin
======nhưng hoàn toàn khác.
Con ngựa hồng của tôi đã có tự lúc sinh.
Tôi, cũng như nước Nga, khắc nghiệt nhiều hơn
Và, cũng như nước Nga, bạch dương tôi có ít.
Esenin ơi,
======nước Nga đã đổi thay!
Nhưng than phiền, theo tôi, là uổng phí
Và nói rằng thay đổi tốt lên –
======tôi sợ
Còn nói rằng thay đổi xấu đi –
======cũng thật hiểm nguy…
Những công trường dựng xây
======những vệ tinh khắp đất nước!
Những chúng ta mất mát
======trên con đường chênh vênh
Mất hai mươi triệu người trong chiến tranh với giặc
Và hàng triệu người –
======trong cuộc chiến với nhân dân.
Lãng quên điều này
======thì ký ức chặt đi chăng?
Nhưng biết lấy ở đâu ra búa rìu để chặt?
Không có ai, như người Nga,
======đã cứu bao dân tộc khác
Và chẳng có ai, như người Nga,
vẫn hủy diệt chính mình.
Nhưng con tàu của ta vẫn bơi.
======Khi dòng nước lăn tăn.
Chúng ta vẫn kéo nước Nga đi về phía trước.
Rằng lũ vô lại có thừa,
======không phải điều tai ác
Không có thiên tài –
======mới là thật nguy nan.
Và thật tiếc một điều rằng đã chẳng còn anh
Và đối thủ của anh – kẻ ưa gào thét lớn
Tôi, tất nhiên, không phải quan tòa với các anh
Những dù sao các anh đã ra đi quá sớm.
Khi người lãnh tụ của đoàn thanh niên cộng sản
Giơ nắm đấm
======đập bàn
===========dọa các nhà thơ
Muốn đem tâm hồn của chúng tôi ra để giày vò
Rồi nặn như sáp, ra cái giống mình, theo ý muốn.
Lời người ấy, Esenin à, chúng tôi đâu có ngán
Nhưng vì điều này mà chẳng có được hân hoan
Và tôi không muốn
======anh hãy tin
===========là phải xách quần
Để chạy theo người đoàn viên thanh niên cộng sản*.
Những điều này làm tôi đắng cay và đau đớn
Không còn sức để mà chống lại chuyện tầm phào
Và ở dưới bánh xe cái chết đang kéo vào
Như chiếc khăn kéo Isadora ngày xa vắng.
Nhưng – cần phải sống.
======Không rượu Vodka
======không dây thòng lọng
Không phụ nữ –
======những thứ này có là cứu rỗi đâu anh
Sự cứu rỗi
======là đất đai Nga của mình
Sự chân thành của anh, Esenin,
mới là điều cứu vãn.
Và thơ ca Nga vẫn băng băng tiến
Về phía trước, xuyên qua mọi đả kích, nghi ngờ
Bằng cái ôm choàng của Esenin
======nhấc bổng cả châu Âu
Như đô vật Poddubny**
======bắt chạm vai lên thảm.
___________________
*Trong bài thơ này Evtushenko nhắc đến nhiều hình ảnh đặc trưng trong thơ Esenin cũng như chính cuộc đời nhà thơ. Riêng câu: “xách quần chạy theo người đoàn viên thanh niên cộng sản” thì trong trường ca “Nước Nga đã mất” Esenin đã viết y hệt như vậy: “Chính vì thế mà tôi muốn/ Xách quần lên/ Chạy theo người đoàn viên thanh niên cộng sản” (Знать, оттого так хочется и мне,/ Задрав штаны, /Бежать за комсомолом).
**Ivan Maximovich Poddubny (1871-1949) – đô vật huyền thoại của Nga và Xô Viết.
Памяти Есенина
Поэты русские,
друг друга мы браним —
Парнас российский дрязгами засеян.
но все мы чем-то связаны одним:
любой из нас хоть чуточку Есенин.
И я — Есенин,
но совсем иной.
В колхозе от рожденья конь мой розовый.
Я, как Россия, более суров,
и, как Россия, менее березовый.
Есенин, милый,
изменилась Русь!
но сетовать, по-моему, напрасно,
и говорить, что к лучшему,—
боюсь,
ну а сказать, что к худшему,—
опасно...
Какие стройки,
спутники в стране!
Но потеряли мы
в пути неровном
и двадцать миллионов на войне,
и миллионы —
на войне с народом.
Забыть об этом,
память отрубив?
Но где топор, что память враз отрубит?
Никто, как русскиe,
так не спасал других,
никто, как русскиe,
так сам себя не губит.
Но наш корабль плывет.
Когда мелка вода,
мы посуху вперед Россию тащим.
Что сволочей хватает,
не беда.
Нет гениев —
вот это очень тяжко.
И жалко то, что нет еще тебя
И твоего соперника — горлана.
Я вам двоим, конечно, не судья,
но все-таки ушли вы слишком рано.
Когда румяный комсомольский вождь
На нас,
поэтов,
кулаком грохочет
и хочет наши души мять, как воск,
и вылепить свое подобье хочет,
его слова, Есенин, не страшны,
но тяжко быть от этого веселым,
и мне не хочется,
поверь,
задрав штаны,
бежать вослед за этим комсомолом.
Порою горько мне, и больно это все,
и силы нет сопротивляться вздору,
и втягивает смерть под колесо,
Как шарф втянул когда-то Айседору.
Но — надо жить.
Ни водка,
ни петля,
ни женщины —
все это не спасенье.
Спасенье ты,
российская земля,
спасенье —
твоя искренность, Есенин.
И русская поэзия идет
вперед сквозь подозренья и нападки
и хваткою есенинской кладет
Европу,
как Поддубный,
на лопатки.
KHÔNG HIỂU NHAU
Không hiểu nhau mà vẫn cứ ôm nhau
Nhưng dù sao, mới thật lạ lùng sao
Cái điều này cũng vô cùng đáng sợ:
Khi hiểu nhau trong tất cả mọi điều.
Ta khổ với cả điều này điều khác
Anh từ lâu nhận thức được trời ban
Nên tâm hồn rất êm ái của em
Không xúc phạm bằng sự không hiểu biết
Không làm đau bằng hiểu biết của mình.
Не понимать друг друга страшно
Не понимать друг друга страшно -
не понимать и обнимать,
и все же, как это ни странно,
но так же страшно, так же страшно
во всем друг друга понимать.
Тем и другим себя мы раним.
И, наделен познаньем ранним,
я душу нежную твою
не оскорблю непониманьем
и пониманьем не убью.
MÀ TUYẾT CỨ RƠI
Mà tuyết cứ rơi, mà tuyết cứ rơi
Tất cả xung quanh đợi chờ gì đó…
Dưới tuyết này, dưới tuyết rơi lặng lẽ
Muốn nói ra trước tất cả mọi người:
“Hỡi cái người quan trọng nhất với tôi
Xin cùng tôi hãy nhìn vào tuyết trắng –
Tuyết thanh sạch, cái điều tôi im lặng
Đấy là tôi muốn về tuyết nói lời”.
Ai người mang tình yêu đến cho tôi?
Chắc có lẽ đấy là Ông già tuyết.
Khi em nhìn vào cửa sổ cùng tôi
Tôi muốn nói lời cám ơn với tuyết.
Mà tuyết cứ rơi, mà tuyết cứ rơi
Tất cả đang bơi và đang lấp lánh
Vì cái điều có em trong cuộc đời
Tôi muốn nói lời cám ơn tuyết trắng.
А снег идет, а снег идет
А снег идет, а снег идет,
И все вокруг чего-то ждет…
Под этот снег, под тихий снег,
Хочу сказать при всех:
«Мой самый главный человек,
Взгляни со мной на этот снег —
Он чист, как то, о чем молчу,
О чем сказать хочу».
Кто мне любовь мою принес?
Наверно, добрый Дед Мороз.
Когда в окно с тобой смотрю,
Я снег благодарю.
А снег идет, а снег идет,
И все мерцает и плывет.
За то, что ты в моей судьбе,
Спасибо, снег, тебе.
ANH YÊU EM
Anh yêu em nhiều hơn cả thiên nhiên
Vì em chính là thiên nhiên vạn vật
Anh yêu em nhiều hơn cả tự do
Không có em, tự do là tù ngục.
Anh yêu em một cách rất sơ suất
Tựa hồ như vực thẳm, không bình thường!
Hơn những gì có thể, anh yêu em!
Hơn cả điều không thể nào có được!
Anh yêu em vô thời hạn, điên cuồng
Ngay cả khi say sưa, khi thô lỗ.
Yêu em nhiều hơn chính mình – đúng thế
Chỉ giản đơn hơn cả bản thân mình.
Hơn cả Shakespeare, anh yêu em
Hơn tất cả trên đời này cái đẹp
Hơn tất cả trên đời này âm nhạc
Vì rằng thơ và nhạc – chính là em.
Yêu em nhiều hơn cả sự vinh quang
Dù ngay cả vinh quang còn phía trước!
Yêu hơn cả tổ quốc mà rỉ sét
Vì rằng Tổ quốc – đó chính là em.
Em đau khổ? Em cầu xin số kiếp?
Đừng chọc tức Thượng Đế bởi bao điều!
Anh yêu em hơn cả niềm hạnh phúc!
Anh yêu em nhiều hơn cả tình yêu!
Я люблю тебя больше природы
Я люблю тебя больше природы,
ибо ты, как природа сама.
Я люблю тебя больше свободы –
без тебя и свобода – тюрьма.
Я люблю тебя неосторожно,
словно пропасть, а не колею.
Я люблю тебя больше, чем можно,
больше, чем невозможно, люблю.
Я люблю безоглядно, бессрочно,
даже пьянствуя, даже грубя,
и уж больше себя – это точно! –
даже больше, чем просто тебя.
Я люблю тебя больше Шекспира,
больше всей на земле красоты, —
даже больше всей музыки мира,
ибо книга и музыка – ты.
Я люблю тебя больше, чем славу,
даже в будущие времена,
чем заржавленную державу,
ибо Родина – ты, не она.
Ты несчастна? Ты просишь участья?
Бога просьбами ты не гневи.
Я люблю тебя больше счастья.
Я люблю тебя больше любви.
ĐỪNG KIÊU NGẠO
Nén kiêu căng – nghĩa là biết tự hào.
Cờ nghi thức – trong bao không hề bạc.
Người đời không hiểu anh – xin đừng khóc
Sẽ có ai sẽ hiểu một khi nào.
Đừng quá tin mình. Kẻo rơi xuống vực
Thiên tài hao mòn vì thói hư danh
Khao khát của tự nhận thức nhỏ nhặt
Chỉ đưa anh đến tự hủy hoại mình.
Cả thất sủng lẫn vinh quang đều có
Sự hiểm nguy – chúng thọc léc hiếu danh.
Anh không coi huân chương là danh dự
Thì đừng coi nước bọt giống huân chương.
Đừng mong gì ở những chú những anh
Xua lòng tham như thứ truyền bệnh tật.
Ai muốn tất cả và ngay lập tức
Sẽ nghèo hơn kẻ biết đợi chờ trông.
Dù ngay tấc đất cắm dùi cũng không
Đừng nâng lên cái điều anh đã hạ.
Tựa như ăn mày khi anh giàu có
Lúc khó khăn chớ như kẻ bần cùng.
Ghen tỵ ư? Còn gì đê tiện hơn!
Chớ bực mình vì thành tích người khác.
Trí tuệ người ta – đừng ghen bí mật
Điều xuẩn ngốc người khác – hãy thương thầm.
Ý kiến người ta cũng chớ phật lòng
Bên bàn nhậu, trong phiên tòa nghiệt ngã.
Hạnh phúc được yêu cũng đừng cố giành
Hãy biết yêu khi không ai yêu cả.
Đừng biến tài năng thành con át chủ.
Không át cơ – chẳng trung thực, can trường.
Giả hào phóng – kẻ rán sành ra mỡ
Làm bộ can trường – chính kẻ nhát gan.
Đừng kiêu ngạo rằng anh người dũng cảm
Rằng đấu tranh – anh luôn đứng giữa hàng
Và ngay cả đã nén lòng kiêu hãnh
Chớ kiêu căng – kẻo khi đấy cuối cùng.
Не возгордись
Смири гордыню — то есть гордым будь.
Штандарт — он и в чехле не полиняет.
Не плачься, что тебя не понимают, —
поймёт когда-нибудь хоть кто-нибудь.
Не самоутверждайся. Пропадёт,
подточенный тщеславием, твой гений,
и жажда мелких самоутверждений
лишь к саморазрушенью приведёт.
У славы и опалы есть одна
опасность — самолюбие щекочут.
Ты ордена не восприми как почесть,
не восприми плевки как ордена.
Не ожидай подачек добрых дядь
и, вытравляя жадность, как заразу,
не рвись урвать. Кто хочет всё и сразу,
тот беден тем, что не умеет ждать.
Пусть даже ни двора и ни кола,
не возвышайся тем, что ты унижен.
Будь при деньгах свободен, словно нищий,
не будь без денег нищим никогда!
Завидовать? Что может быть пошлей!
Успех другого не сочти обидой.
Уму чужому втайне не завидуй,
чужую глупость втайне пожалей.
Не оскорбляйся мнением любым
в застолье, на суде неумолимом.
Не добивайся счастья быть любимым, —
умей любить, когда ты нелюбим.
Не превращай талант в козырный туз.
Не козыри — ни честность ни отвага.
Кто щедростью кичится — скрытый скряга,
кто смелостью кичится — скрытый трус.
Не возгордись ни тем, что ты борец,
ни тем, что ты в борьбе посередине,
и даже тем, что ты смирил гордыню,
не возгордись — тогда тебе конец.
XIN TRỜI
Xin trời trả cho người mù đôi mắt
Uốn thẳng lưng cho những kẻ gù lưng.
Xin trời cho làm Chúa, dù một chút
Nhưng không cần một chút bị đóng đinh.
Xin trời cho đừng dây với chính quyền
Và không anh hùng một cách dối trá
Không ăn cắp – mà trở thành giàu có
Nếu như điều này có thể, tất nhiên.
Xin trời cho làm kẻ lắm mưu toan
Nhưng không ngốn sang bầy đoàn nào cả
Không thành nạn nhân, không làm đao phủ
Không ăn mày và không phải chủ nhân.
Xin trời cho vết thương rách ít hơn
Khi con người ta đánh nhau ẩu đả.
Xin cho nhiều những quốc gia đủ thứ
Nhưng không đánh mất Tổ quốc của mình.
Cầu xin trời cho đất nước của anh
Không đạp anh bằng giày hay ủng bốt.
Cầu xin trời cho người vợ của anh
Sẽ yêu anh, dù anh là hành khất.
Xin trời bịt miệng những kẻ dối gian
Lời của Chúa trong tiếng kêu con trẻ.
Cho thấy Chúa trong vẻ ngoài phụ nữ
Mà không phải là gương mặt đàn ông.
Không thập ác. Thập ác chẳng cần mang
Mà như bẻ gập con người khốn khổ.
Để không tin vào một điều gì cả
Xin trời cho, dù một chút Thánh thần!
Xin trời cho tất cả và mọi thứ
Và ngay lập tức – cho khỏi phật lòng…
Xin trời cho mọi thứ, nhưng chỉ xin
Sao sau này không thấy mình xấu hổ.
Дай бог!
Дай бог слепцам глаза вернуть
и спины выпрямить горбатым.
Дай бог быть богом хоть чуть-чуть,
но быть нельзя чуть-чуть распятым.
Дай бог не вляпаться во власть
и не геройствовать подложно,
и быть богатым — но не красть,
конечно, если так возможно.
Дай бог быть тертым калачом,
не сожранным ничьею шайкой,
ни жертвой быть, ни палачом,
ни барином, ни попрошайкой.
Дай бог поменьше рваных ран,
когда идет большая драка.
Дай бог побольше разных стран,
не потеряв своей, однако.
Дай бог, чтобы твоя страна
тебя не пнула сапожищем.
Дай бог, чтобы твоя жена
тебя любила даже нищим.
Дай бог лжецам замкнуть уста,
глас божий слыша в детском крике.
Дай бог живым узреть Христа,
пусть не в мужском, так в женском лике.
Не крест — бескрестье мы несем,
а как сгибаемся убого.
Чтоб не извериться во всем,
Дай бог ну хоть немного Бога!
Дай бог всего, всего, всего
и сразу всем — чтоб не обидно...
Дай бог всего, но лишь того,
за что потом не станет стыдно.