Semen Isaakovich Kirsanov (tiếng Nga: Семён Исаа́кович
Кирса́нов; họ thật là Kortchich – Кортчик, 5 tháng 9 năm 1906 – 10 tháng 12 năm 1972) là nhà thơ Nga Xô Viết.
Tiểu sử:
Semen Kirsanov sinh ở Odessa trong gia đình một thợ may. Học ở trường gymnazy và từ năm 1920 học ở khoa ngôn ngữ Đại học nhân dân Odessa. Từ năm 1922 bắt đầu in thơ ở tạp chí Юголеф. Năm 1924 làm quen với Vladimir Vladimirovich Mayakovsky và trở thành người của phái Vị lai. Năm 1926 Kirsanov đến Moskva, cùng với Mayakovsky đi đọc thơ ở nhiều thành phố, khát khao tạo nên một hình thức thơ mới. Những năm tiếp đó ông liên tiếp in các trường ca: "Прицел" (1926), "Опыты" (1927), "Моя именинная"(1928)… Cuối thập niên 1930, ông cùng với một số nhà thơ Xô Viết đi Ba Lan, Tiệp Khắc, Pháp. Thời kỳ Thế chiến II ông làm phóng viên chiến trường của một số tờ báo quân đội, có mặt ở nhiều chiến trường khác nhau, viết báo, viết khẩu hiệu, truyền đơn và làm thơ. Năm 1951 ông được tặng Giải thưởng Stalin (giải thưởng Nhà nước).
Thơ của Semen Kirsanov rất đa dạng về hình thức và phong phú về nội dung. Ông là một trong những học trò của Vladimir Mayakovsky tạo được cho mình một con đường riêng trong thơ ca nửa cuối thế kỷ XX và có ảnh hưởng đến nhiều nhà nổi tiếng như Bella Akhmadulina, Yevgeny Yevtushenko, Robert Rozhdestvensky, Andrey Voznesensky... Dưới đây là một bài thơ có hình thức rất độc đáo:
АД
Иду
в аду.
Дороги -
в берлоги,
топи, ущелья
мзды, отмщенья.
Врыты в трясины
по шеи в терцинах,
губы резинно раздвинув,
одни умирают от жажды,
кровью опившись однажды.
Ужасны порезы, раны, увечья,
в трещинах жижица человечья.
Кричат, окалечась, увечные тени:
уймите, зажмите нам кровотеченье,
мы тонем, вопим, в ущельях теснимся,
к вам, на земле, мы приходим и снимся.
Выше, спирально тела их, стеная, несутся,
моля передышки, напрасно, нет, не спасутся.
Огненный ветер любовников кружит и вертит,
по двое слипшись, тщетно они просят о смерти.
За ними! Бросаюсь к их болью пронзенному кругу,
надеясь свою среди них дорогую заметить подругу.
Мелькнула. Она ли? Одна ли? Ее ли полузакрытые веки?
И с кем она, мучась, сплелась и, любя, слепилась навеки?
Франческа? Она? Да Римини? Теперь я узнал: обманула!
К другому, тоскуя, она поцелуем болящим прильнула.
Я вспомнил: он был моим другом, надежным слугою,
он шлейф с кружевами, как паж, носил за тобою.
Я вижу: мы двое в постели, а тайно он между.
Убить? Мы в аду. Оставьте у входа надежду!
О, пытки моей беспощадная ежедневность!
Слежу, осужденный на вечную ревность.
Ревную, лететь обреченный вплотную,
вдыхать их духи, внимать поцелую.
Безжалостный к грешнику ветер
за ними волчком меня вертит
и тащит к их темному ложу,
и трет меня об их кожу,
прикосновенья — ожоги!
Нет обратной дороги
в кружащемся рое.
Ревнуй! Эти двое
наказаны тоже.
Больно, боже!
Мука, мука!
Где ход
назад?
Вот
ад.
Ngoài sáng tác, Semen Kirsanov còn dịch nhiều thơ của Louis Aragon, Pablo Neruda và nhiều nhà thơ khác ra tiếng Nga. Ông được tặng 2 huân chương Lenin và nhiều huân, huy chương khác của Nhà nước Liên Xô. Ông mất năm 1972 ở Moskva.
Tác phẩm:
*Прицел, 1926
*Опыты, 1927
*Моя именинная, 1928
*Слово предоставляется Кирсанову, 1930
*Товарищ Маркс, 1933
*Владимир Ильич Ленин, 1933
*Золушка, 1934
*Война — чуме!, 1937
*Семь дней недели, 1956
*Строки стройки, 1930
*Перед поэмой, 1931
*Ударный квартал, 1931
*Стихи в строю, 1932
...................
...........................
Semen Kirsanov sinh ở Odessa trong gia đình một thợ may. Học ở trường gymnazy và từ năm 1920 học ở khoa ngôn ngữ Đại học nhân dân Odessa. Từ năm 1922 bắt đầu in thơ ở tạp chí Юголеф. Năm 1924 làm quen với Vladimir Vladimirovich Mayakovsky và trở thành người của phái Vị lai. Năm 1926 Kirsanov đến Moskva, cùng với Mayakovsky đi đọc thơ ở nhiều thành phố, khát khao tạo nên một hình thức thơ mới. Những năm tiếp đó ông liên tiếp in các trường ca: "Прицел" (1926), "Опыты" (1927), "Моя именинная"(1928)… Cuối thập niên 1930, ông cùng với một số nhà thơ Xô Viết đi Ba Lan, Tiệp Khắc, Pháp. Thời kỳ Thế chiến II ông làm phóng viên chiến trường của một số tờ báo quân đội, có mặt ở nhiều chiến trường khác nhau, viết báo, viết khẩu hiệu, truyền đơn và làm thơ. Năm 1951 ông được tặng Giải thưởng Stalin (giải thưởng Nhà nước).
Thơ của Semen Kirsanov rất đa dạng về hình thức và phong phú về nội dung. Ông là một trong những học trò của Vladimir Mayakovsky tạo được cho mình một con đường riêng trong thơ ca nửa cuối thế kỷ XX và có ảnh hưởng đến nhiều nhà nổi tiếng như Bella Akhmadulina, Yevgeny Yevtushenko, Robert Rozhdestvensky, Andrey Voznesensky... Dưới đây là một bài thơ có hình thức rất độc đáo:
АД
Иду
в аду.
Дороги -
в берлоги,
топи, ущелья
мзды, отмщенья.
Врыты в трясины
по шеи в терцинах,
губы резинно раздвинув,
одни умирают от жажды,
кровью опившись однажды.
Ужасны порезы, раны, увечья,
в трещинах жижица человечья.
Кричат, окалечась, увечные тени:
уймите, зажмите нам кровотеченье,
мы тонем, вопим, в ущельях теснимся,
к вам, на земле, мы приходим и снимся.
Выше, спирально тела их, стеная, несутся,
моля передышки, напрасно, нет, не спасутся.
Огненный ветер любовников кружит и вертит,
по двое слипшись, тщетно они просят о смерти.
За ними! Бросаюсь к их болью пронзенному кругу,
надеясь свою среди них дорогую заметить подругу.
Мелькнула. Она ли? Одна ли? Ее ли полузакрытые веки?
И с кем она, мучась, сплелась и, любя, слепилась навеки?
Франческа? Она? Да Римини? Теперь я узнал: обманула!
К другому, тоскуя, она поцелуем болящим прильнула.
Я вспомнил: он был моим другом, надежным слугою,
он шлейф с кружевами, как паж, носил за тобою.
Я вижу: мы двое в постели, а тайно он между.
Убить? Мы в аду. Оставьте у входа надежду!
О, пытки моей беспощадная ежедневность!
Слежу, осужденный на вечную ревность.
Ревную, лететь обреченный вплотную,
вдыхать их духи, внимать поцелую.
Безжалостный к грешнику ветер
за ними волчком меня вертит
и тащит к их темному ложу,
и трет меня об их кожу,
прикосновенья — ожоги!
Нет обратной дороги
в кружащемся рое.
Ревнуй! Эти двое
наказаны тоже.
Больно, боже!
Мука, мука!
Где ход
назад?
Вот
ад.
Ngoài sáng tác, Semen Kirsanov còn dịch nhiều thơ của Louis Aragon, Pablo Neruda và nhiều nhà thơ khác ra tiếng Nga. Ông được tặng 2 huân chương Lenin và nhiều huân, huy chương khác của Nhà nước Liên Xô. Ông mất năm 1972 ở Moskva.
Tác phẩm:
*Прицел, 1926
*Опыты, 1927
*Моя именинная, 1928
*Слово предоставляется Кирсанову, 1930
*Товарищ Маркс, 1933
*Владимир Ильич Ленин, 1933
*Золушка, 1934
*Война — чуме!, 1937
*Семь дней недели, 1956
*Строки стройки, 1930
*Перед поэмой, 1931
*Ударный квартал, 1931
*Стихи в строю, 1932
...................
...........................
CÔ GÁI
Cô gái đi trên đường. Cô gái khóc
Cô gái chùi đôi mắt màu xanh.
Tôi hiểu ra – ai người cô để mất.
Hỡi những người qua đường! Sao các anh
Đi ngang với những đôi mắt ráo hoảnh?
Hay là các anh không đánh mất mình?
Sao các anh không khóc? Giấu nước mắt
Như bạch dương giấu nhựa đắng cay
Dưới vỏ cây giữa trời giá rét?…
Шла по улице девушка. Плакала
Шла по улице девушка. Плакала.
Голубые глаза вытирала.
Мне понятно - кого потеряла.
Дорогие прохожие! Что же вы
проскользнули с сухими глазами?
Или вы не теряете сами?
Почему ж вы не плачете? Прячете
свои слезы, как прячут березы
горький сок под корою в морозы?..
KHÔNG CÒN CÁI CHẾT
Không còn cái chết.
Không còn cái chết.
Không còn.
Không còn.
Không.
Không còn cái chết.
Không khí bình minh.
Còn bình minh hẹp
Sương trên hoa hồng.
Còn tia hổ phách
Trên vỏ cây thông.
Và đá trên cát.
Còn sự xuất phát
Trong cánh hoa hồng.
Không còn cái chết.
Không còn cái chết.
Trưa sẽ nóng hơn
Còn rơm – để ngủ.
Mặt trời sẽ có
Một nửa con đường.
Từ những sợi tơ
Múi khăn buộc chặt
Kén trắng vỡ ra
Cháy lên thỉ xa
Không còn cái chết.
Không còn cái chết!
Cào cào vừa sinh
Chỉ năm phút trước –
Một kẻ lạ lùng
Mũi to và xanh
Có ve và có
Bài hát của mình
Tôi vì thế nên
Chết trong năm phút…
Không còn cái chết!
Không còn cái chết!
Không còn!
Không!
Смерти больше нет
Смерти больше нет.
Больше нет.
Больше нет.
Нет. Нет.
Нет.
Смерти больше нет.
Есть рассветный воздух.
Узкая заря.
Есть роса на розах.
Струйки янтаря
на коре сосновой.
Камень на песке.
Есть начало новой
клетки в лепестке.
Смерти больше нет.
Смерти больше нет.
Будет жарким полдень,
сено - чтоб уснуть.
Солнцем будет пройден
половинный путь.
Будет из волокон
скручен узелок,-
лопнет белый кокон,
вспыхнет василек.
Смерти больше нет.
Смерти больше нет!
Родился кузнечик
пять минут назад -
странный человечек,
зелен и носат:
У него, как зуммер,
песенка своя,
оттого что я
пять минут как умер...
Смерти больше нет!
Смерти больше нет!
Больше нет!
Нет!
Cô gái đi trên đường. Cô gái khóc
Cô gái chùi đôi mắt màu xanh.
Tôi hiểu ra – ai người cô để mất.
Hỡi những người qua đường! Sao các anh
Đi ngang với những đôi mắt ráo hoảnh?
Hay là các anh không đánh mất mình?
Sao các anh không khóc? Giấu nước mắt
Như bạch dương giấu nhựa đắng cay
Dưới vỏ cây giữa trời giá rét?…
Шла по улице девушка. Плакала
Шла по улице девушка. Плакала.
Голубые глаза вытирала.
Мне понятно - кого потеряла.
Дорогие прохожие! Что же вы
проскользнули с сухими глазами?
Или вы не теряете сами?
Почему ж вы не плачете? Прячете
свои слезы, как прячут березы
горький сок под корою в морозы?..
KHÔNG CÒN CÁI CHẾT
Không còn cái chết.
Không còn cái chết.
Không còn.
Không còn.
Không.
Không còn cái chết.
Không khí bình minh.
Còn bình minh hẹp
Sương trên hoa hồng.
Còn tia hổ phách
Trên vỏ cây thông.
Và đá trên cát.
Còn sự xuất phát
Trong cánh hoa hồng.
Không còn cái chết.
Không còn cái chết.
Trưa sẽ nóng hơn
Còn rơm – để ngủ.
Mặt trời sẽ có
Một nửa con đường.
Từ những sợi tơ
Múi khăn buộc chặt
Kén trắng vỡ ra
Cháy lên thỉ xa
Không còn cái chết.
Không còn cái chết!
Cào cào vừa sinh
Chỉ năm phút trước –
Một kẻ lạ lùng
Mũi to và xanh
Có ve và có
Bài hát của mình
Tôi vì thế nên
Chết trong năm phút…
Không còn cái chết!
Không còn cái chết!
Không còn!
Không!
Смерти больше нет
Смерти больше нет.
Больше нет.
Больше нет.
Нет. Нет.
Нет.
Смерти больше нет.
Есть рассветный воздух.
Узкая заря.
Есть роса на розах.
Струйки янтаря
на коре сосновой.
Камень на песке.
Есть начало новой
клетки в лепестке.
Смерти больше нет.
Смерти больше нет.
Будет жарким полдень,
сено - чтоб уснуть.
Солнцем будет пройден
половинный путь.
Будет из волокон
скручен узелок,-
лопнет белый кокон,
вспыхнет василек.
Смерти больше нет.
Смерти больше нет!
Родился кузнечик
пять минут назад -
странный человечек,
зелен и носат:
У него, как зуммер,
песенка своя,
оттого что я
пять минут как умер...
Смерти больше нет!
Смерти больше нет!
Больше нет!
Нет!
GIẤC NGỦ TRONG MƠ
1
Tôi kêu suốt đêm.
Không ai nghe tiếng
Không ai đi đến.
Tôi đã không còn.
2
Tôi đã không còn
Không ai nghe tiếng
Không ai đi dến.
Tôi kêu suốt đêm.
3
Tôi đã không còn!
Tôi kêu suốt đêm.
Không ai nghe tiếng
Không ai đi đến…
Сон во сне
1
Кричал я всю ночь.
Никто не услышал,
никто не пришел.
И я умер.
2
Я умер.
Никто не услышал,
никто не пришел.
И кричал я всю ночь.
3
- Я умер!-
кричал я всю ночь.
Никто не услышал,
никто не пришел...
BỐN BÀI SONNET
1
Vườn nơi anh sống – nở hoa bằng em
Nhà anh ngủ - bằng em, anh xếp đặt
Những vì sao, tỏa sáng – anh bắt buộc
Và cho lá cành giọng nói của em.
Bước em đi, anh làm thành con sóng
Bàn tay em, nắn thành những cánh chim
Gương mặt em, anh thả vào trời xanh
Và sẽ trở thành ngôi sao số phận.
Anh sống ở nơi có em, và em
Là ngôi nhà, khu vườn, là biển cả
Là con sóng, là chim tự trời xanh.
Nơi không có lời, để thốt: “Không có em”
Không nghi ngờ, điều này rất có thể
Nhưng dù sao – thơ của ước mơ anh.
2
Không thành hiện thực. Vườn thu trơ trụi
Với mùa thu có thật ít cái chung
Và không khí bằng giọng thu vang lên
Và sao trời bằng mùa thu lấp láy.
Những chiếc lá, lời thu không xao động
Biển không dám làm thành một bước chân
Cánh quạ khoang bên ống khói đen hơn
Những đám mây đen từ trời lơ lửng.
Trời cho anh một mùa thu trống rỗng
Ngôi nhà và biển – không phải mùa thu
Và ly biệt trở thành mất mát nặng.
Thậm chí không còn vết của lời “em”
Sự tồn tại của mùa thu sây sát
Nhưng dù sao – thơ của ước mơ anh.
3
Lại vang lên. Có thể, không ở đây
Mà đâu đó – mùa thu trong giấc mộng
Hơi thở và lời trong ngôi nhà này
Chìa bàn tay – những cây đề đang lớn.
Thu vẫn sống. Người ta đợi ăn trưa
Thu vào nhà. Gương mặt rất quen thuộc
Tay đặt trên quyển sách Lermontov
Và đôi mắt màu xám của ngày xưa.
Vẻ lặng yên nhận ra giọng của em
Và mọi ngày ngôi nhà sẽ đón em
Không nhà – thì rừng, không rừng – đồng nội.
Và thường xuyên cùng em bước ra đồng
Không anh – thì người ta, không người ta – bạn gái
Nhưng dù sao – thơ của ước mơ anh.
4
Chỉ là tưởng tượng. Anh đi tìm trong đó
Vứt tất cả - cuộc đời và vinh quang
Làm người xa lạ bước giữa trần gian
Tìm mỗi ngôi nhà, cánh rừng, đồng cỏ.
Anh đi bằng chân đất trên tuyết phủ
Không đội mũ dưới nắng cháy mùa hè
Dưới tuyết nổi, gió sa, dưới nắng mưa
Đợi từ đêm đến sáng bên cửa sổ.
Và nếu như có ngôi nhà như thế
Dù đến già, tìm được bàn tay anh:
“Hãy nhận anh, em yêu, bằng tiếng gõ!..”
Dù trả lời: “Trong nhà không có nàng!”
Anh vẫn ép bàn tay vào cánh cửa
Viết xong bài thơ của ước mơ anh.
1938
Четыре сонета
1
Сад, где б я жил,— я б расцветил тобой,
дом, где б я спал,— тобою бы обставил,
созвездия б сиять тобой заставил
и листьям дал бы дальний голос твой.
Твою походку вделал бы в прибой
и в крылья птиц твои б ладони вправил,
и в небо я б лицо твое оправил,
когда бы правил звездною судьбой.
И жил бы тут, где всюду ты и ты:
ты — дом, ты — сад, ты — море, ты — кусты,
прибой и с неба машущая птица,
где слова нет, чтоб молвить: «Тебя нет»,—
сомненья нет, что это может сбыться,
и все-таки — моей мечты сонет
2
не сбудется. Осенний, голый сад
с ней очень мало общего имеет,
и воздух голосом ее не веет,
и звезды неба ею не блестят,
и листья ее слов не шелестят,
и море шагу сделать не посмеет,
крыло воронье у трубы чернеет,
и с неба клочья тусклые висят.
Тут осень мне пустынная дана,
где дом, и куст, и море — не она,
где сделалось утратой расставанье,
где даже нет следа от слова «ты»,
царапинки ее существованья,
и все-таки — сонет моей мечты
3
опять звенит. Возможно, что не тут,
а где-нибудь — она в спокойной дреме,
ее слова, ее дыханье в доме,
и к ней руками — фикусы растут,
Она живет. Ее с обедом ждут.
Приходит в дом. И нет лица знакомей.
Рука лежит на лермонтовском томе,
глаза, как прежде карие, живут.
Тут знает тишь о голосе твоем,
и всякий день тебя встречает дом,
не дом — так лес, не лес — так вроде луга.
С тобою часто ходит вдоль полей —
не я — так он, не он — твоя подруга,
и все-таки — сонет мечты моей
4
лишь вымысел. Найди я правду в нем,
я б кинул все — и жизнь и славу эту,
и странником я б зашагал по свету,
обшарить каждый луг, и лес, и дом.
Прошел бы я по снегу босиком,
без шапки по тропическому лету,
у окон ждать от сумерек к рассвету,
под солнцем, градом, снегом и дождем.
И если есть похожий дом такой,
я к старости б достал его рукой:
«Узнай меня, любимая, по стуку!..»
Пусть мне ответят: «В доме ее нет!»
К дверям прижму иссеченную руку
и допишу моей мечты сонет.
1
Tôi kêu suốt đêm.
Không ai nghe tiếng
Không ai đi đến.
Tôi đã không còn.
2
Tôi đã không còn
Không ai nghe tiếng
Không ai đi dến.
Tôi kêu suốt đêm.
3
Tôi đã không còn!
Tôi kêu suốt đêm.
Không ai nghe tiếng
Không ai đi đến…
Сон во сне
1
Кричал я всю ночь.
Никто не услышал,
никто не пришел.
И я умер.
2
Я умер.
Никто не услышал,
никто не пришел.
И кричал я всю ночь.
3
- Я умер!-
кричал я всю ночь.
Никто не услышал,
никто не пришел...
BỐN BÀI SONNET
1
Vườn nơi anh sống – nở hoa bằng em
Nhà anh ngủ - bằng em, anh xếp đặt
Những vì sao, tỏa sáng – anh bắt buộc
Và cho lá cành giọng nói của em.
Bước em đi, anh làm thành con sóng
Bàn tay em, nắn thành những cánh chim
Gương mặt em, anh thả vào trời xanh
Và sẽ trở thành ngôi sao số phận.
Anh sống ở nơi có em, và em
Là ngôi nhà, khu vườn, là biển cả
Là con sóng, là chim tự trời xanh.
Nơi không có lời, để thốt: “Không có em”
Không nghi ngờ, điều này rất có thể
Nhưng dù sao – thơ của ước mơ anh.
2
Không thành hiện thực. Vườn thu trơ trụi
Với mùa thu có thật ít cái chung
Và không khí bằng giọng thu vang lên
Và sao trời bằng mùa thu lấp láy.
Những chiếc lá, lời thu không xao động
Biển không dám làm thành một bước chân
Cánh quạ khoang bên ống khói đen hơn
Những đám mây đen từ trời lơ lửng.
Trời cho anh một mùa thu trống rỗng
Ngôi nhà và biển – không phải mùa thu
Và ly biệt trở thành mất mát nặng.
Thậm chí không còn vết của lời “em”
Sự tồn tại của mùa thu sây sát
Nhưng dù sao – thơ của ước mơ anh.
3
Lại vang lên. Có thể, không ở đây
Mà đâu đó – mùa thu trong giấc mộng
Hơi thở và lời trong ngôi nhà này
Chìa bàn tay – những cây đề đang lớn.
Thu vẫn sống. Người ta đợi ăn trưa
Thu vào nhà. Gương mặt rất quen thuộc
Tay đặt trên quyển sách Lermontov
Và đôi mắt màu xám của ngày xưa.
Vẻ lặng yên nhận ra giọng của em
Và mọi ngày ngôi nhà sẽ đón em
Không nhà – thì rừng, không rừng – đồng nội.
Và thường xuyên cùng em bước ra đồng
Không anh – thì người ta, không người ta – bạn gái
Nhưng dù sao – thơ của ước mơ anh.
4
Chỉ là tưởng tượng. Anh đi tìm trong đó
Vứt tất cả - cuộc đời và vinh quang
Làm người xa lạ bước giữa trần gian
Tìm mỗi ngôi nhà, cánh rừng, đồng cỏ.
Anh đi bằng chân đất trên tuyết phủ
Không đội mũ dưới nắng cháy mùa hè
Dưới tuyết nổi, gió sa, dưới nắng mưa
Đợi từ đêm đến sáng bên cửa sổ.
Và nếu như có ngôi nhà như thế
Dù đến già, tìm được bàn tay anh:
“Hãy nhận anh, em yêu, bằng tiếng gõ!..”
Dù trả lời: “Trong nhà không có nàng!”
Anh vẫn ép bàn tay vào cánh cửa
Viết xong bài thơ của ước mơ anh.
1938
Четыре сонета
1
Сад, где б я жил,— я б расцветил тобой,
дом, где б я спал,— тобою бы обставил,
созвездия б сиять тобой заставил
и листьям дал бы дальний голос твой.
Твою походку вделал бы в прибой
и в крылья птиц твои б ладони вправил,
и в небо я б лицо твое оправил,
когда бы правил звездною судьбой.
И жил бы тут, где всюду ты и ты:
ты — дом, ты — сад, ты — море, ты — кусты,
прибой и с неба машущая птица,
где слова нет, чтоб молвить: «Тебя нет»,—
сомненья нет, что это может сбыться,
и все-таки — моей мечты сонет
2
не сбудется. Осенний, голый сад
с ней очень мало общего имеет,
и воздух голосом ее не веет,
и звезды неба ею не блестят,
и листья ее слов не шелестят,
и море шагу сделать не посмеет,
крыло воронье у трубы чернеет,
и с неба клочья тусклые висят.
Тут осень мне пустынная дана,
где дом, и куст, и море — не она,
где сделалось утратой расставанье,
где даже нет следа от слова «ты»,
царапинки ее существованья,
и все-таки — сонет моей мечты
3
опять звенит. Возможно, что не тут,
а где-нибудь — она в спокойной дреме,
ее слова, ее дыханье в доме,
и к ней руками — фикусы растут,
Она живет. Ее с обедом ждут.
Приходит в дом. И нет лица знакомей.
Рука лежит на лермонтовском томе,
глаза, как прежде карие, живут.
Тут знает тишь о голосе твоем,
и всякий день тебя встречает дом,
не дом — так лес, не лес — так вроде луга.
С тобою часто ходит вдоль полей —
не я — так он, не он — твоя подруга,
и все-таки — сонет мечты моей
4
лишь вымысел. Найди я правду в нем,
я б кинул все — и жизнь и славу эту,
и странником я б зашагал по свету,
обшарить каждый луг, и лес, и дом.
Прошел бы я по снегу босиком,
без шапки по тропическому лету,
у окон ждать от сумерек к рассвету,
под солнцем, градом, снегом и дождем.
И если есть похожий дом такой,
я к старости б достал его рукой:
«Узнай меня, любимая, по стуку!..»
Пусть мне ответят: «В доме ее нет!»
К дверям прижму иссеченную руку
и допишу моей мечты сонет.
GẶP GỠ
Anh đến sớm hơn hai giờ
Và đi nhiều hơn hai dặm.
Bên cạnh anh những cây thông rất lớn
Tuyết phủ đầy dưới những chân to.
Em đến muộn hơn hai giờ
Tất cả đóng băng. Anh chờ lâu quá
Anh sống thêm trên đời hai giờ nữa
Những tảng băng dày trên sông Volga.
Bắt đầu một thời kỳ đóng băng
Không khí cứng. Và ngọn cây màu trắng
Trong áo bào trắng, mặt đất đông cứng
Sự đợi chờ quả vĩ đại vô cùng!
Nhưng em nhận ra ngay, thật khó khăn
Bước chân đầu là tháng tư tan tuyết.
Hoa lưu ly cứ tràn lên đôi mắt.
Những mạch nước nguồn róc rách thì thầm.
Và lại nở hoa, và lại màu xanh
Trong cuộc đời ấm nồng muôn màu sắc
Băng giá có vẻ chưa từng, dù quả thật
Anh từng đợi em trong bốn giờ liền.
1918
Свиданье
Я пришел двумя часами раньше
и прошел двумя верстами больше.
Рядом были сосны-великанши,
под ногами снеговые толщи.
Ты пришла двумя часами позже.
Все замерзло. Ждал я слишком долго.
Два часа еще я в мире прожил.
Толстым льдом уже покрылась Волга.
Наступал период ледниковый.
Кислород твердел. Белели пики.
В белый панцирь был Земшар закован.
Ожиданье было столь великим!
Но едва ты показалась - сразу
первый шаг стал таяньем апрельским.
Незабудка потянулась к глазу.
Родники закувыркались в плеске.
Стало снова зелено, цветочно
в нашем теплом разноцветном мире.
Лед - как не был, несмотря на то что
я тебя прождал часа четыре.
Anh đến sớm hơn hai giờ
Và đi nhiều hơn hai dặm.
Bên cạnh anh những cây thông rất lớn
Tuyết phủ đầy dưới những chân to.
Em đến muộn hơn hai giờ
Tất cả đóng băng. Anh chờ lâu quá
Anh sống thêm trên đời hai giờ nữa
Những tảng băng dày trên sông Volga.
Bắt đầu một thời kỳ đóng băng
Không khí cứng. Và ngọn cây màu trắng
Trong áo bào trắng, mặt đất đông cứng
Sự đợi chờ quả vĩ đại vô cùng!
Nhưng em nhận ra ngay, thật khó khăn
Bước chân đầu là tháng tư tan tuyết.
Hoa lưu ly cứ tràn lên đôi mắt.
Những mạch nước nguồn róc rách thì thầm.
Và lại nở hoa, và lại màu xanh
Trong cuộc đời ấm nồng muôn màu sắc
Băng giá có vẻ chưa từng, dù quả thật
Anh từng đợi em trong bốn giờ liền.
1918
Свиданье
Я пришел двумя часами раньше
и прошел двумя верстами больше.
Рядом были сосны-великанши,
под ногами снеговые толщи.
Ты пришла двумя часами позже.
Все замерзло. Ждал я слишком долго.
Два часа еще я в мире прожил.
Толстым льдом уже покрылась Волга.
Наступал период ледниковый.
Кислород твердел. Белели пики.
В белый панцирь был Земшар закован.
Ожиданье было столь великим!
Но едва ты показалась - сразу
первый шаг стал таяньем апрельским.
Незабудка потянулась к глазу.
Родники закувыркались в плеске.
Стало снова зелено, цветочно
в нашем теплом разноцветном мире.
Лед - как не был, несмотря на то что
я тебя прождал часа четыре.