Nikolay Alexeyevich Nekrasov (tiếng Nga:
Никола́й Алексе́евич Некра́сов, 10 /12 /1821 – 8 /1 /1878) – nhà thơ Nga, một trong những nhà thơ lớn nhất của thơ ca Nga thế kỉ XIX.
Tiểu sử:
Nikolay Alexeyevich Nekrasov sinh ở tỉnh Yaroslavl trong một gia đình có 13 đứa con. Thời nhỏ thường sống ở trang trại bên bờ sông Volga, gần gũi với cuộc sống của nông dân. Từ năm 1832 – 1837 học ở trường Gymnazy Yaroslavl. Năm 1838 Nekrasov đến Peterburg và được nhận làm sinh viên dự thính của khoa triết, Đại học Saint Peterburg. Bắt đầu đăng thơ trên bào từ năm 1838.
Năm 1840 in tập thơ đầu tiên Мечты и звуки (Những ước mơ và tiếng vang) không thành công. Nhà phê bình Belinsky khuyên Nekrasov viết về những dề tài xã hội. Những năm 1845 – 1846 gặt hái những thành công đầu tiên với những bài thơ nổi tiếng như В дороге (Trên đường), Тройка (Troyka), Родина (Tổ quốc) – nhà thơ đứng về phía nông dân, tố cáo địa chủ cường hào. Năm 1846 Nekrasov trở thành biên tập của tạp chí Sovremennik (Người đương thời) cho đến khi tạp chí bị đóng cửa vào năm 1866.
Những năm 50-60 (thế kỉ XIX), Nekrasov nổi tiếng là một nhà thơ của nhân dân, nhạy cảm với nỗi đau của con người và sự bất công trong xã hội. Những trường ca: Мороз, Красный нос (Giá băng, mũi đỏ, 1863), Кому на Руси жить хорошо (Ai sống sung sướng ở nước Nga, 1863-1877) đã vẽ lên bức tranh nhiều mặt của đời sống Nga mà trước hết là những người nông dân. Nhà thơ mơ ước về cuộc sống hạnh phúc cho họ. Các nhà phê bình gọi thơ và trường ca của Nekrasov là bộ bách khoa toàn thư về đời sống Nga những năm 50-70 của thế kỷ 19. Nikolay Nekrasov được coi là người kế tục truyền thống thơ ca của Pushkin, Lermontov và là người chuẩn bị sự phát triển tiếp theo của thơ ca Nga. Ông mất ở Peterburg.
Tác phẩm:
*Стихотворения (Thơ, 1856)
*Крестьянские дети (Những đứa con nông dân, 1861), trường ca
*Mороз, Красный нос (Giá băng, mũi đỏ, 1863), trường ca
*Кому на Руси жить хорошо (Ai sống sung sướng ở nước Nga, 1863-1877), trường ca
*Дедушка (Cô gái, 1870), trường ca
*Русские женщины (Những người phụ nữ Nga, 1872-73), trường ca
*Современники" (1875-1876), thơ châm biếm
*Колыбельная песня (Bài hát ru, 1871), thơ châm biếm
*Современная ода (Bài oda thời hiện đại, 1873), thơ châm biếm
*Недавнее время (Thời gian gần đây, 1871), thơ châm biếm
Một số bài thơ
THÔNG LỆ TÌNH YÊU
(Мы с тобой бестолковые люди)
Tôi và em là những người tính nóng
Rằng phút giây là có thể bùng lên
Ta muốn làm vơi đi niềm xúc động
Bằng những lời gay gắt, thiếu khôn ngoan
Thì cứ nói, khi mà em giận dữ
Những gì em đau đớn, bồi hồi
Em cứ giận, chẳng cần chi phải giữ
Thấy nhẹ lòng nhưng là chán đấy thôi.
Nếu thông lệ tình yêu không tránh khỏi
Thì hạnh phúc ta nhận lấy ít nhiều
Sau cãi vã là lặng yên, êm ái
Là sự trở về của số mệnh, tình yêu...
1851
Мы с тобой бестолковые люди
Мы с тобой бестолковые люди:
Что минута, то вспышка готова!
Облегченье взволнованной груди,
Неразумное, резкое слово.
Говори же, когда ты сердита,
Все, что душу волнует и мучит!
Будем, друг мой, сердиться открыто:
Легче мир - и скорее наскучит.
Если проза в любви неизбежна,
Так возьмем и с нее долю счастья:
После ссоры так полно, так нежно
Возвращенье любви и участья...
(Мы с тобой бестолковые люди)
Tôi và em là những người tính nóng
Rằng phút giây là có thể bùng lên
Ta muốn làm vơi đi niềm xúc động
Bằng những lời gay gắt, thiếu khôn ngoan
Thì cứ nói, khi mà em giận dữ
Những gì em đau đớn, bồi hồi
Em cứ giận, chẳng cần chi phải giữ
Thấy nhẹ lòng nhưng là chán đấy thôi.
Nếu thông lệ tình yêu không tránh khỏi
Thì hạnh phúc ta nhận lấy ít nhiều
Sau cãi vã là lặng yên, êm ái
Là sự trở về của số mệnh, tình yêu...
1851
Мы с тобой бестолковые люди
Мы с тобой бестолковые люди:
Что минута, то вспышка готова!
Облегченье взволнованной груди,
Неразумное, резкое слово.
Говори же, когда ты сердита,
Все, что душу волнует и мучит!
Будем, друг мой, сердиться открыто:
Легче мир - и скорее наскучит.
Если проза в любви неизбежна,
Так возьмем и с нее долю счастья:
После ссоры так полно, так нежно
Возвращенье любви и участья...
NÀNG THƠ ĐAU KHỔ
(Замолкни, Муза мести и печали!)
Thôi im đi, Nàng Thơ đau khổ
Chẳng muốn làm phiền nữa giấc mơ xinh
Tôi và em đã từng nguyền rủa
Giờ lặng im để tôi chết một mình
.Khóc làm chi những buồn đau mất mát?
Dẫu biết rằng khóc cho nhẹ lòng thêm
Tôi như cánh cửa tù rên cót két
Đã chán rồi tiếng nức nở con tim.
Thế là hết! Giờ gió mưa u ám
Đường tôi đi ảm đạm chẳng vô tình
Trên đầu tôi giờ chẳng còn hửng sáng
Tia nắng hồng ấm áp giữa tâm linh.
Tia nắng thần tiên của tình yêu hi vọng
Tôi vẫn gọi trong mơ và cả trong đời
Trong lao động, đấu tranh, khi bên bờ vực thẳm
Vẫn gọi tên nhưng nay đã thôi rồi!
Cái vực thẳm mà tôi không muốn biết
Nơi mà em muốn thắp sáng đôi điều
Con tim khi đã không còn thấy ghét
Có nghĩa là cũng đã chẳng còn yêu.
1855
Замолкни, Муза мести и печали!
Замолкни, Муза мести и печали!
Я сон чужой тревожить не хочу,
Довольно мы с тобою проклинали.
Один я умираю - и молчу.
К чему хандрить, оплакивать потери?
Когда б хоть легче было от того!
Мне самому, как скрип тюремной двери,
Противны стоны сердца моего.
Всему конец. Ненастьем и грозою
Мой темный путь недаром омрача,
Не просветлеет небо надо мною,
Не бросит в душу теплого луча...
Волшебный луч любви и возрожденья!
Я звал тебя - во сне и наяву,
В труде, в борьбе, на рубеже паденья
Я звал тебя,- теперь уж не зову!
Той бездны сам я не хотел бы видеть,
Которую ты можешь осветить...
То сердце не научится любить,
Которое устало ненавидеть.
XIN LỖi
(Прости! Не помни дней паденья)
Xin lỗi nhé! Quên đi ngày sụp đổ
Quên hết buồn đau, thất vọng, ưu phiền
Quên đi nước mắt, quên ngày bão tố
Quên oán thù và giận dỗi, hờn ghen.
Nhưng trong ngày, khi tình yêu rực rỡ
Ôm vào lòng tình ve vuốt mơn man
Ta sảng khoái biết bao và hãy nhớ
Với cuộc đời đừng quên nói: cám ơn!
1856
Прости
Прости! Не помни дней паденья,
Тоски, унынья, озлобленья,-
Не помни бурь, не помни слез,
Не помни ревности угроз!
Но дни, когда любви светило
Над нами ласково всходило
И бодро мы свершали путь,-
Благослови и не забудь!
THỜI GIAN TRÔI
(Что ни год - уменьшаются силы)
Thời gian trôi - sức lực giờ đã kiệt
Máu lạnh tanh và trí tuệ bỗng lười
Tổ quốc ơi! Tôi đi tìm cái chết
Chẳng kịp đợi tự do về với dân Người!
Nhưng dù chết, tôi vẫn mong được biết
Rằng Người đang đi đúng một con đường
Người nông dân khi gieo mùa sẽ biết
Rằng ngày mai được nhìn thấy mùa màng.
Để ngọn gió của đồng quê yêu dấu
Mang đến mọi nhà những tiếng reo vui
Trong lời gió chẳng còn nghe nung nấu
Những giọt nước mắt và máu con người.
1861
Что ни год - уменьшаются силы
Что ни год - уменьшаются силы,
Ум ленивее, кровь холодней...
Мать-отчизна! дойду до могилы,
Не дождавшись свободы твоей!
Но желал бы я знать, умирая,
Что стоишь ты на верном пути,
Что твой пахарь, поля засевая,
Видит ведреный день впереди;
Чтобы ветер родного селенья
Звук единый до слуха донес,
Под которым не слышно кипенья
Человеческой крови и слез.
(Прости! Не помни дней паденья)
Xin lỗi nhé! Quên đi ngày sụp đổ
Quên hết buồn đau, thất vọng, ưu phiền
Quên đi nước mắt, quên ngày bão tố
Quên oán thù và giận dỗi, hờn ghen.
Nhưng trong ngày, khi tình yêu rực rỡ
Ôm vào lòng tình ve vuốt mơn man
Ta sảng khoái biết bao và hãy nhớ
Với cuộc đời đừng quên nói: cám ơn!
1856
Прости
Прости! Не помни дней паденья,
Тоски, унынья, озлобленья,-
Не помни бурь, не помни слез,
Не помни ревности угроз!
Но дни, когда любви светило
Над нами ласково всходило
И бодро мы свершали путь,-
Благослови и не забудь!
THỜI GIAN TRÔI
(Что ни год - уменьшаются силы)
Thời gian trôi - sức lực giờ đã kiệt
Máu lạnh tanh và trí tuệ bỗng lười
Tổ quốc ơi! Tôi đi tìm cái chết
Chẳng kịp đợi tự do về với dân Người!
Nhưng dù chết, tôi vẫn mong được biết
Rằng Người đang đi đúng một con đường
Người nông dân khi gieo mùa sẽ biết
Rằng ngày mai được nhìn thấy mùa màng.
Để ngọn gió của đồng quê yêu dấu
Mang đến mọi nhà những tiếng reo vui
Trong lời gió chẳng còn nghe nung nấu
Những giọt nước mắt và máu con người.
1861
Что ни год - уменьшаются силы
Что ни год - уменьшаются силы,
Ум ленивее, кровь холодней...
Мать-отчизна! дойду до могилы,
Не дождавшись свободы твоей!
Но желал бы я знать, умирая,
Что стоишь ты на верном пути,
Что твой пахарь, поля засевая,
Видит ведреный день впереди;
Чтобы ветер родного селенья
Звук единый до слуха донес,
Под которым не слышно кипенья
Человеческой крови и слез.
(Великое чувство! У каждых дверей)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa
Dù đi xa hay ở rất gần
Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ
Mẹ dù xa nhưng ngóng về con.
Vĩ đại thay! Muôn đời tình Mẹ
Trong tim ta trân trọng giữ gìn
Ta yêu chị, yêu cha, yêu vợ
Nhưng khổ đau ta nhớ Mẹ hiền!
1877
Великое чувство!
Великое чувство! У каждых дверей,
В какой стороне ни заедем,
Мы слышим, как дети зовут матерей,
Далеких, но рвущихся к детям.
Великое чувство! Его до конца
Мы живо в душе сохраняем, —
Мы любим сестру, и жену, и отца,
Но в муках мы мать вспоминаем!
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa
Dù đi xa hay ở rất gần
Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ
Mẹ dù xa nhưng ngóng về con.
Vĩ đại thay! Muôn đời tình Mẹ
Trong tim ta trân trọng giữ gìn
Ta yêu chị, yêu cha, yêu vợ
Nhưng khổ đau ta nhớ Mẹ hiền!
1877
Великое чувство!
Великое чувство! У каждых дверей,
В какой стороне ни заедем,
Мы слышим, как дети зовут матерей,
Далеких, но рвущихся к детям.
Великое чувство! Его до конца
Мы живо в душе сохраняем, —
Мы любим сестру, и жену, и отца,
Но в муках мы мать вспоминаем!
(Ты всегда хороша несравненно)
Em bao giờ cũng xinh đẹp tuyệt trần
Nhưng khi anh buồn rầu và cau có
Thì em hào hứng, thì em rộn rã
Em vui tươi và em nhạo cười anh.
Em cười vang mà nghe thật dễ thương
Như kẻ thù của anh em nhạo báng
Đầu gục xuống trông vô cùng sầu thảm
Em nhạo cười anh láu lỉnh, thật buồn.
Em ngoan hiền, ít âu yếm với anh
Nhưng nụ hôn của em luôn cháy bỏng
Đôi mắt của em dịu dàng, đằm thắm
Đang vuốt ve và mơn trớn nhìn anh.
Rằng khổ đau trong hiện tại vì em
Anh dẽ dàng và khôn ngoan gắng đợi
Và phía trước – dù chỉ là biển tối
Bằng đôi mắt không sợ hãi anh nhìn…
1847
Ты всегда хороша несравненно
Ты всегда хороша несравненно,
Но когда я уныл и угрюм,
Оживляется так вдохновенно
Твой веселый, насмешливый ум;
Ты хохочешь так бойко и мило,
Так врагов моих глупых бранишь,
То, понурив головку уныло,
Так лукаво меня ты смешишь;
Так добра ты, скупая на ласки,
Поцелуй твой так полон огня,
И твои ненаглядные глазки
Так голубят и гладят меня,-
Что с тобой настоящее горе
Я разумно и кротко сношу
И вперед — в это темное море —
Без обычного страха гляжу…
ANH KHÔNG YÊU ĐIỀU MAI MỈA CỦA EM
(Я не люблю иронии твоей)
Anh không yêu điều mai mỉa của em
Hãy cứ để nó chết vì đã sống
Hai chúng mình từng yêu nhau cháy bỏng
Chút tình yêu còn lại hãy giữ gìn
Ta sớm đắm chìm trong đó mà em!
Đến bây giờ vẫn đằm thắm, ngại ngùng
Buổi hẹn hò em vẫn còn tha thiết
Đến bây giờ trong anh còn mãnh liệt
Những ước mơ và lo lắng, giận hờn
Thì chớ vội vàng kết thúc nghe em!
Nhưng dù sao đoạn kết cũng đã gần
Niềm khát khao cuối cùng còn cháy bỏng
Nhưng trong tim nỗi buồn và lạnh cóng…
Như mùa thu sông nổi sóng ầm ầm
Nhưng con sóng này càng lạnh lẽo hơn…
1850
Я не люблю иронии твоей
Я не люблю иронии твоей.
Оставь ее отжившим и нежившим,
А нам с тобой, так горячо любившим,
Еще остаток чувства сохранившим, —
Нам рано предаваться ей!
Пока еще застенчиво и нежно
Свидание продлить желаешь ты,
Пока еще кипят во мне мятежно
Ревнивые тревоги и мечты —
Не торопи развязки неизбежной!
И без того она недалека:
Кипим сильней, последней жаждой полны,
Но в сердце тайный холод и тоска…
Так осенью бурливее река,
Но холодней бушующие волны…
THẬP ÁC NẶNG NỀ CHO SỐ PHẬN EM
(Тяжёлый крест достался ей на долю)
Thập ác nặng nề cho số phận em:
Hãy lặng im, cứ giả vờ không khóc
Cả tuổi trẻ, đam mê em trao hết –
Cho kẻ trở thành đao phủ của em.
Đã từ lâu không gặp gỡ với ai
Em chán nản, ngại ngùng, em buồn bã
Lời người ta điên cuồng và độc địa
Hãy khiêm nhường và hãy biết lắng nghe:
“Em đừng nói rằng giết tuổi thanh xuân
Lòng ghen tỵ của anh em làm khổ
Em đừng nói!.. anh đã gần bên mộ
Còn em tươi hơn hoa giữa mùa xuân!
Nhớ lại ngày, khi em đã yêu anh
Em đã nghe lời rằng: yêu em đó
Đừng nguyền rủa! anh đã gần bên mộ
Cái chết anh mua, anh sẽ cố hết mình!
Em đừng nói rằng ngày tháng cô liêu
Người cai ngục đau buồn em đừng gọi:
Trước mặt anh – ngôi mộ đầy bóng tối
Còn trước mặt em – tràn ngập tình yêu!
Anh biết rằng giờ đã chẳng yêu nhau
Đợi và thương chỉ làm em chán ngấy…
Ngôi mộ đã gần, anh xin em đợi đấy
Cho số phận anh kết thúc cái mở đầu!”
Những âm thanh khủng khiếp, nghe điếng người!...
Như bức tượng tuyệt trần và tê tái
Em im lặng, ngón tay mình em bẻ…
Biết nói chi để đáp lại những lời?...
1855
Тяжёлый крест достался ей на долю
Тяжёлый крест достался ей на долю:
Страдай, молчи, притворствуй и не плачь;
Кому и страсть, и молодость, и волю —
Всё отдала, — тот стал ее палач!
Давно ни с кем она не знает встречи;
Угнетена, пуглива и грустна,
Безумные, язвительные речи
Безропотно выслушивать должна:
«Не говори, что молодость сгубила
Ты, ревностью истерзана моей;
Не говори!.. близка моя могила,
А ты цветка весеннего свежей!
Тот день, когда меня ты полюбила
И от меня услышала: люблю —
Не проклинай! близка моя могила:
Поправлю всё, всё смертью искуплю!
Не говори, что дни твои унылы,
Тюремщиком больного не зови:
Передо мной — холодный мрак могилы,
Перед тобой — объятия любви!
Я знаю: ты другого полюбила,
Щадить и ждать наскучило тебе…
О, погоди! близка моя могила —
Начатое и кончить дай судьбе!..»
Ужасные, убийственные звуки!..
Как статуя прекрасна и бледна,
Она молчит, свои ломая руки…
И что сказать могла б ему она?..
VĨNH BIỆT
Прощание ("Мы разошлись на полпути...")
Ta chia tay mới được nửa con đường
Ta đã phân kỳ trước khi cách trở
Và nghĩ rằng: rồi sẽ không đau khổ
Trong lời đau thương “vĩnh biệt” cuối cùng
Nhưng dù khóc sức lực đã không còn.
Em hãy viết thư – anh mong điều đó
Với anh những bức thư này dễ thương
Và thiêng liêng như hoa từ mộ chí
Như từ nấm mồ của trái tim anh!
1856
Прощанье
Мы разошлись на полпути,
Мы разлучились до разлуки
И думали: не будет муки
В последнем роковом "прости",
Но даже плакать нету силы.
Пиши - прошу я одного...
Мне эти письма будут милы
И святы, как цветы с могилы, -
С могилы сердца моего!
GỬI NÀNG THƠ
Музе (О муза! наша песня спета...)
Hỡi nàng thơ! Bài ca của ta đã hết
Hãy đến đây, vuốt mắt cho nhà thơ
Đi vào giấc mộng hư vô muôn kiếp
Chị của nhân dân – và chị của ta!
1876
Музе (О муза! наша песня спета...)
О муза! наша песня спета.
Приди, закрой глаза поэта
На вечный сон небытия,
Сестра народа - и моя!
(Тяжёлый крест достался ей на долю)
Thập ác nặng nề cho số phận em:
Hãy lặng im, cứ giả vờ không khóc
Cả tuổi trẻ, đam mê em trao hết –
Cho kẻ trở thành đao phủ của em.
Đã từ lâu không gặp gỡ với ai
Em chán nản, ngại ngùng, em buồn bã
Lời người ta điên cuồng và độc địa
Hãy khiêm nhường và hãy biết lắng nghe:
“Em đừng nói rằng giết tuổi thanh xuân
Lòng ghen tỵ của anh em làm khổ
Em đừng nói!.. anh đã gần bên mộ
Còn em tươi hơn hoa giữa mùa xuân!
Nhớ lại ngày, khi em đã yêu anh
Em đã nghe lời rằng: yêu em đó
Đừng nguyền rủa! anh đã gần bên mộ
Cái chết anh mua, anh sẽ cố hết mình!
Em đừng nói rằng ngày tháng cô liêu
Người cai ngục đau buồn em đừng gọi:
Trước mặt anh – ngôi mộ đầy bóng tối
Còn trước mặt em – tràn ngập tình yêu!
Anh biết rằng giờ đã chẳng yêu nhau
Đợi và thương chỉ làm em chán ngấy…
Ngôi mộ đã gần, anh xin em đợi đấy
Cho số phận anh kết thúc cái mở đầu!”
Những âm thanh khủng khiếp, nghe điếng người!...
Như bức tượng tuyệt trần và tê tái
Em im lặng, ngón tay mình em bẻ…
Biết nói chi để đáp lại những lời?...
1855
Тяжёлый крест достался ей на долю
Тяжёлый крест достался ей на долю:
Страдай, молчи, притворствуй и не плачь;
Кому и страсть, и молодость, и волю —
Всё отдала, — тот стал ее палач!
Давно ни с кем она не знает встречи;
Угнетена, пуглива и грустна,
Безумные, язвительные речи
Безропотно выслушивать должна:
«Не говори, что молодость сгубила
Ты, ревностью истерзана моей;
Не говори!.. близка моя могила,
А ты цветка весеннего свежей!
Тот день, когда меня ты полюбила
И от меня услышала: люблю —
Не проклинай! близка моя могила:
Поправлю всё, всё смертью искуплю!
Не говори, что дни твои унылы,
Тюремщиком больного не зови:
Передо мной — холодный мрак могилы,
Перед тобой — объятия любви!
Я знаю: ты другого полюбила,
Щадить и ждать наскучило тебе…
О, погоди! близка моя могила —
Начатое и кончить дай судьбе!..»
Ужасные, убийственные звуки!..
Как статуя прекрасна и бледна,
Она молчит, свои ломая руки…
И что сказать могла б ему она?..
VĨNH BIỆT
Прощание ("Мы разошлись на полпути...")
Ta chia tay mới được nửa con đường
Ta đã phân kỳ trước khi cách trở
Và nghĩ rằng: rồi sẽ không đau khổ
Trong lời đau thương “vĩnh biệt” cuối cùng
Nhưng dù khóc sức lực đã không còn.
Em hãy viết thư – anh mong điều đó
Với anh những bức thư này dễ thương
Và thiêng liêng như hoa từ mộ chí
Như từ nấm mồ của trái tim anh!
1856
Прощанье
Мы разошлись на полпути,
Мы разлучились до разлуки
И думали: не будет муки
В последнем роковом "прости",
Но даже плакать нету силы.
Пиши - прошу я одного...
Мне эти письма будут милы
И святы, как цветы с могилы, -
С могилы сердца моего!
GỬI NÀNG THƠ
Музе (О муза! наша песня спета...)
Hỡi nàng thơ! Bài ca của ta đã hết
Hãy đến đây, vuốt mắt cho nhà thơ
Đi vào giấc mộng hư vô muôn kiếp
Chị của nhân dân – và chị của ta!
1876
Музе (О муза! наша песня спета...)
О муза! наша песня спета.
Приди, закрой глаза поэта
На вечный сон небытия,
Сестра народа - и моя!
(Давно - отвергнутый тобою)
Em bỏ rơi tôi đã từ lâu lắm
Tôi từng đi trên những bến bờ này
Và những ý nghĩ bất hạnh dâng đầy
Rồi phút chốc chạy theo từng con sóng.
Những con sóng sáng trong và thân ái
Lên mép bờ dốc đứng tôi đặt chân
Bỗng những con sóng hăm dọa tối sầm
Nỗi kinh hoàng ngăn bước chân tôi lại!
Ngày tình yêu và hạnh phúc tràn đầy
Hai chúng tôi nơi này thường xuyên đến.
Và em cảm tạ biết bao con sóng
Vì những sóng này tôi bị bỏ rơi.
Giờ em đã quên, chỉ một mình tôi
Sau biết bao tháng năm dài bất hạnh
Với cõi lòng nát tan tôi thơ thẩn
Và tôi lại ra những bến bờ này.
Và ý nghĩ kia lại trở về đây
Và lại lên bờ dốc cao tôi đứng
Nhưng những con sóng không còn dọa dẫm
Mà gọi tôi vào vực thẳm xa xôi….
1855
Давно - отвергнутый тобою
Давно - отвергнутый тобою,
Я шёл по этим берегам
И, полон думой роковою,
Мгновенно кинулся к волнам.
Они приветливо яснели.
На край обрыва я ступил -
Вдруг волны грозно потемнели,
И страх меня остановил!
Поздней - любви и счастья полны,
Ходили часто мы сюда.
И ты благословляла волны,
Меня отвергшие тогда.
Теперь - один, забыт тобою,
Чрез много роковых годов,
Брожу с убитою душою
Опять у этих берегов.
И та же мысль приходит снова -
И на обрыве я стою,
Но волны не грозят сурово,
А манят в глубину свою...
SAO EM
(Как ты кротка, как ты послушна)
Sao em nhu mì và em ngoan ngoãn
Em vui lòng làm nô lệ người ta
Nhưng người ta lại tỏ vẻ hững hờ
Với cõi lòng ủ ê và lạnh cóng.
Em cần nhớ gì? Cô gái trẻ trung
Đẹp tuyệt vời và kiêu kỳ, ngạo mạn
Hãy xử sự với người ta độc đoán
Thì người ta sẽ tha thiết yêu em.
Mặt trời mùa thu – chẳng có mây đen
Giữa trời thiên thanh mà không sưởi ấm
Còn mùa hè – qua bóng tối cơn giông
Vẫn rót ra những tia đầy sức sống.
1856
Как ты кротка, как ты послушна
Как ты кротка, как ты послушна,
Ты рада быть его рабой,
Но он внимает равнодушно,
Уныл и холоден душой.
А прежде... помнишь? Молода,
Горда, надменна и прекрасна,
Ты им играла самовластно,
Но он любил, любил тогда!
Так солнце осени - без туч
Стоит, не грея, на лазури,
А летом и сквозь сумрак бури
Бросает животворный луч...
GỬI TÁC GIẢ CỦA “ANNA KARENINA”
Автору “Анны Карениной”
Tolstoy, anh đã chứng minh bằng tài năng và chịu khó
Rằng đã là phụ nữ rồi thì không còn nên dan díu với ai
Không với sĩ quan, không với quý tộc lâu đời
Khi người phụ nữ này đã là người vợ và người mẹ.
1876
Автору «Анны Карениной»
(Из «Записной книжки»)
Толстой, ты доказал с терпеньем и талантом,
Что женщине не следует «гулять»
Ни с камер-юнкером, ни с флигель-адъютантом,
Когда она жена и мать.
GỬI ZINAIDA
Зине (Ты еще на жизнь имеешь право...)
Em vẫn có quyền với cuộc đời này
Anh bây giờ đi nhanh về bóng xế.
Anh sẽ chết – và vinh quang tàn lụi
Đừng ngạc nhiên – đừng buồn bã em ơi!
Hãy nhớ rằng thứ ánh sáng lâu dài
Không rực sáng với tên anh như thế:
Vì đấu tranh cản trở anh làm thơ
Và thơ ca cản anh làm chiến sĩ.
Ai phụng sự cho mục tiêu thế kỷ
Và toàn tâm trao hiến cuộc đời mình
Cho cuộc đấu tranh vì cả nhân quần
Chỉ người này sống lâu hơn em ạ…
1876
Зине (Ты еще на жизнь имеешь право...)
Ты еще на жизнь имеешь право,
Быстро я иду к закату дней.
Я умру - моя померкнет слава,
Не дивись - и не тужи о ней!
Знай, дитя: ей долгим, ярким светом
Не гореть на имени моем:
Мне борьба мешала быть поэтом,
Песни мне мешали быть бойцом.
Кто, служа великим целям века,
Жизнь свою всецело отдает
На борьбу за брата-человека,
Только тот себя переживет...
15.GỬI ZINAIDA
Зине (Двести уж дней...)
Đã hai trăm ngày
Và hai trăm đêm
Những khổ đau còn nữa
Suốt ngày và suốt đêm
Ở trong con tim em
Lời than của tôi đáp lại
Đã hai trăm ngày
Và hai trăm đêm!
Những ngày mùa đông tăm tối
Những đêm mùa đông rõ ràng…
Zina! đôi mắt bơ phờ đem nhắm lại
Zina! em hãy ngủ đi em!
1876
Зине (Двести уж дней...)
Двести уж дней,
Двести ночей
Муки мои продолжаются;
Ночью и днем
В сердце твоем
Стоны мои отзываются,
Двести уж дней,
Двести ночей!
Темные зимние дни,
Ясные зимние ночи...
Зина! закрой утомленные очи!
Зина! усни!