Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2017

Thơ Konstantin Vanshenkin


Konstantin Yakovlevich Vanshenkin (tiếng Nga: Константи́н Я́ковлевич Ванше́нкин sinh ngày 17 tháng 12 năm 1925) – là nhà thơ, nhà văn Nga Xô Viết, tác giả của những bài hát nổi tiếng như Ta mến yêu người, ơi cuộc sống (Я люблю тебя, жизнь), Điệu Vals giã từ («Вальс расставания) vv

Tiểu sử:
Konstantin Vanshenkin sinh Moskva, trong gia đình một kỹ sư yêu thơ ca. Năm 1942 đang học lớp 10 thì tình nguyện ra trận. Sau chiến tranh vào học trường Đại học mỏ được một năm thì chuyển sang học trường viết văn M. Gorky và tốt nghiệp năm 1953. Bài thơ đầu tiên viết về đất nước Hungari được Hồng quân giải phóng và in sau chiến tranh. Những tập thơ đầu tiên: Песня о часовых (1951), Подарок (1952), Лирические стихи (1953), Портрет друга (1955), Волны (1957), Лирика (1959). 

Thơ của Konstantin Vanshenkin giản dị, gần gũi với những nhà thơ thế hệ chiến tranh Vệ quốc, viết về những đ tài như: tình đồng chí, về những cậu bé đi vào cuộc chiến từ những ngày tuổi thơ, về cuộc sống riêng tư của mỗi con người và cuộc sống của cả đất nước, nghĩa vụ đối với tổ quốc... Nhiều bài thơ của ông được phổ nhạc và trở thành những bài hát nổi tiếng. Vợ ôngInna Goff cũng là nữ nhà thơ, nhà văn, tác giả của bài hát Cánh đồng Nga (Русское поле) nổi tiếng. Con gái Galina hiện nay cũng là họa sĩ nổi tiếng Nga. 

Konstantin Vanshenkin được tặng Giải thưởng Nhà nước Nga (Лауреат Государственной премии Российской Федерации) năm 2001 và nhiều huân, huy chương các loại của Liên Xô và Nga.

Tác phẩm:
• Песня о часовых, 1951
• Подарок, 1952
• Лирические стихи, 1953
• Портрет друга, 1955
• Волны, 1957
• Надпись на книге, 1960
• Окна, 1962
• Армейская юность, 1964
• Другу, 1965
• Соловьиный коридор, 1967
• Избранное, 1969
• Прикосновение, 1972
• Характер, 1973
• Наброски к роману. Статьи, 1973
• Избранные произведения в 2 т., 1975

..........................
.................................

Một số bài thơ


TA MẾN YÊU NGƯỜI, ƠI CUỘC SỐNG
Tặng M. Bernes

Ta mến yêu người, ơi cuộc sống
Tự nhiên thôi, mới mẻ gì đâu
Ta mến yêu người, ơi cuộc sống
Ta yêu rồi yêu lại lần sau.

Những ô cửa sổ đèn đã sáng
Ta về nhà mỏi mệt bước chân
Ta mến yêu người, ơi cuộc sống
Và mong người sẽ tốt đẹp hơn.

Cuộc đời đã cho ta không ít
Mặt đất trải rộng, biển mênh mông
Và ta đã từ lâu được biết
Vô tư tình bạn của đàn ông.

Trong tiếng ngân vang của mỗi ngày
Ta hạnh phúc rằng ta bận bịu!
Một tình yêu trong tim ta đây
Yêu là gì chắc người đã hiểu.

Tiếng họa mi hót hay biết bao
Buổi hoàng hôn, nụ hôn buổi sớm
Con trẻ ơi, đỉnh của tình yêu
Đ
ấy là điều diệu kỳ quá lớn!

Ta lại cùng các con qua đấy
Tuổi thơ, tuổi trẻ và bến tàu
Và sau đấy là bao đứa cháu
Tất cả như lặp lại từ đầu.

Chao ôi, ngày tháng trôi nhanh quá
Nhìn lên tóc bạc, bỗng thấy buồn
Đ
ời ơi có nhớ bao người lính
Không về đ bảo vệ đời chăng? 

Thì hãy vui lên và thể hiện
Trong tiếng kèn khúc hát mùa xuân!
Ta mến yêu người, ơi cuộc sống
Và được người yêu lại, ta mong!

Я люблю тебя, Жизнь
            М.Бернесу

Я люблю тебя, Жизнь,
Что само по себе и не ново,
Я люблю тебя, Жизнь,
Я люблю тебя снова и снова.

Вот уж окна зажглись,
Я шагаю с работы устало,
Я люблю тебя, Жизнь,
И хочу, чтобы лучше ты стала.

Мне немало дано -
Ширь земли и равнина морская,
Мне известна давно
Бескорыстная дружба мужская.

В звоне каждого дня,
Как я счастлив, что нет мне покоя!
Есть любовь у меня,
Жизнь, ты знаешь, что это такое.

Как поют соловьи,
Полумрак, поцелуй на рассвете.
И вершина любви -
Это чудо великое - дети!

Вновь мы с ними пройдем,
Детство, юность, вокзалы, причалы.
Будут внуки потом,
Всё опять повторится сначала.

Ах, как годы летят,
Мы грустим, седину замечая,
Жизнь, ты помнишь солдат,
Что погибли, тебя защищая?

Так ликуй и вершись
В трубных звуках весеннего гимна!
Я люблю тебя, Жизнь,
И надеюсь, что это взаимно!


MÙA XUÂN

Mưa dông đầu mùa trên thành phố
Mưa kêu trong ống xối vang rền.
Chẳng ai trên đời yêu ta cả
Cô bé nhà ai dối chính mình.

Nước trên vỉa hè rơi tung tóe
Bé con trong căn hộ một mình
Bé con khoác lác vì vui quá
Hân hoan bên cửa sổ mở toang.

Mưa tuôn ào ào trên đường phố
Mưa trên nóc xe điện ầm vang.
Chẳng ai trên đời yêu ta cả
Giọng ai hạnh phúc vẫn ngân vang.

Весной (Первый ливень...)

Первый ливень над городом лупит,
Тарахтит в водосточной трубе.
"Ах, никто меня в мире не любит",-
Врет девчонка самой же себе.

Брызги тучей стоят над панелью,
А девчонка в квартире одна,-
Врет от радости и от веселья
У раскрытого настежь окна.

Дождь с размаху по улицам рубит,
По троллейбусным крышам стучит.
"Ах, никто меня в жизни не любит!"-
Звонко голос счастливый звучит...



TÔI VỚI NÀNG

Tôi với nàng chia tay đã nhiều năm.
Lùi lại tháng năm theo đường phố cũ
Tôi bất chợt lại đi về nơi đó
Nơi mà tôi thường gặp gỡ với nàng.

Chỉ nhớ ra dưới ánh những ngọn đèn
Xung quanh nhà nàng và treo trước cửa
Thật giống cảnh những ngày đầu tháng giêng
Người ta đ trong thư ngày năm cũ.

Это было давно. Мы расстались тогда

Это было давно. Мы расстались тогда.
А назавтра по старой аллее
Я, забывшись, пришел машинально туда,
Где обычно встречались мы с нею.

И опомнился лишь под лучом фонаря
Возле дома ее, перед входом...
Так - случается - в первые дни января
Письма
      прошлым датируют годом.

Thơ Konstantin Fofanov


Konstantin Mikhailovich Fofanov (tiếng Nga: Константин Михайлович Фофанов, 18 tháng 5 năm 1862 – 17 tháng 5 năm 1911) là nhà thơ Nga.

Tiểu sử:
Konstantin Fofanov sinh ra trong một gia đình tiểu thương ở Saint Petersburg. Fofanov không được học hành đến nơi đến chốn nhưng rất ham mê đọc sách và biết làm thơ từ nhỏ. Năm lên 14 tuổi làm thơ bắt chước Nekrasov và năm lên 16 tuổi làm thơ theo những đề tài trong Kinh Thánh. Năm 1881 in bài thơ đầu tiên ở báo Người Nga Do Thái (Русский еврей), bài thơ Bí ẩn của tình yêu (Таинство любви) viết năm 1885 in ở tạp chí Người quan sát (Наблюдатель) năm 1888. 

Từ năm 1887 Fofanov thường xuyên in thơ ở báo Thời Mới (Новое время) của nhà báo, nhà phê bình và chủ nhà in Aleksei Sergeevich Suvorin. Sau khi in tập thơ đầu tiên Стихотворения vào năm 1887, Suvorin cho in tập thơ thứ 2 cũng với tên gọi như vậy vào năm 1889. Những tập thơ này gây được tiếng vang mạnh mẽ, được các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng thời đó như Yakov Petrovich Polonsky, Apollon Nikolayevich Maykov , Lev Nikolayevich Tolstoy ủng hộ. Họa sĩ Ylya Repin vẽ chân dung của Konstantin Fofanov sau khi đọc Cтихотворения. Nhà thơ Polonsky đề cử tập thơ này cho giải thưởng Puskin của Viện Hàn lâm khoa học nhưng sau đó đã không được trao giải vì một số điểm tự do về ngôn ngữ và phong cách của tác giả không được ban giám khảo tán thành.

Thập niên 1890 Fofanov nghiện rượu nặng và mắc bệnh tâm lý, những năm cuối đời sống trong cảnh nghèo túng nhưng ông vẫn sáng tác đều đặn. Ông đã chuẩn bị bản thảo một số cuốn sách nhưng không tìm được nhà in nào ủng hộ. Konstantin Fofanov được thừa nhận là một hiện tượng của thơ ca Nga cuối thế kỷ 19. Ông mất ngày 17 tháng 5 năm 1911 ở Saint Petersburg.

Tác phẩm:
*Стихотворения, 1887
*Стихотворения, tập 2, 1889
*Тени и тайны», 1892
*Барон Клакс, 1892
*Стихотворения (в пяти частях), 1896
*Иллюзии», 1900

Một số bài thơ


TÌNH YÊU ĐI QUA

Tình yêu đi qua, bão tố đi qua
Nhưng một nỗi buồn vẫn còn hành hạ
Và hãy còn đây một giọt lệ nhòa
Giọt nước mắt cuối cùng, chắc lẽ thế.

Còn nơi kia – khi trả hết nợ đời
Anh quên tất cả, những gì một thuở
Anh sẽ lên đường bằng một chuyến bay
Về cái nơi không còn quay lại nữa.

Dù sẽ chết, sức lực sẽ không còn
Nhưng cái chết không hẳn là mất cả.
Hãy nhớ rằng anh đã từng yêu em
Yêu như thế, không ai còn có thể!

Và cùng với bài ca cuối của tình
Đôi mắt buồn bã kia anh khép lại…
Em hãy tạ ơn giấc mơ của anh
Giống như anh sẽ mang ơn em vậy! 


Прошла любовь, прошла гроза

Прошла любовь, прошла гроза,
Но грусть живей меня тревожит.
Еще слеза, одна слеза,
Еще - последняя, быть может.

А там - покончен с жизнью счет,
Забуду все, чем был когда-то;
И я направлю свой полет
Туда, откуда нет возврата!

Пусть я умру, лишенный сил,
Не все кончина уничтожит.
Узнай, что я тебя любил,
Как полюбить никто не может!

С последней песнею любви
Я очи грустные смежаю...
И ты мой сон благослови,
Как я тебя благословляю!


CÓ VẺ NHƯ

Có vẻ như chúng mình đang yêu nhau
Nhưng tại sao đôi khi ta chạy trốn
Những lời dịu dàng giống như bệnh hoạn
Tránh xa và xấu hổ, tại vì sao?

Tại vì sao ta quen sự gièm pha
Sao ta muốn hành hạ nhau cho đã?
Chẳng lẽ sôi lên vì một tình yêu
Thì hai con tim thấy cần ghét bỏ?


Мы любим, кажется, друг друга

Мы любим, кажется, друг друга,
Но отчего же иногда
От нежных слов, как от недуга,
Бежим, исполнены стыда?

Зачем, привыкшие к злословью,
Друг друга любим мы терзать?
Ужель, кипя одной любовью,
Должны два сердца враждовать?



KỶ NIỆM

Chứa chất trong lòng lời trách cay đắng
Vì câu chuyện buồn ngày tháng xa xăm
Vì lầm lỡ, vì giấc mơ cuồng loạn
Tôi nhìn kỹ hơn bức ảnh của nàng.

Tôi lại yêu, khổ đau mà say đắm
Và lại giống như ngày ấy phật lòng
Đôi mắt nàng nhìn sang tôi hờ hững
Và cứ thế lặng im.

Tôi như người bị vô tình trói chặt
Không làm sao rời ánh mắt khỏi nàng…
Trong lặng im này có điều bí mật
Là kỷ niệm về ngày tháng xa xăm…


Исполнен горького упрека

Исполнен горького упрека
За злую повесть прежних лет,
За сон безумства и порока,
Я на ее гляжу портрет.

Я вновь люблю, страдая страстно,
И на меня, как в день обид,
Она взирает безучастно
И ничего не говорит.

Но к ней прикованный случайно,
Я не свожу с нее очей...
В ее молчаньи скрыта тайна,
А в тайне - память прошлых дней...

Thơ Aleksandr Radishchev


Aleksandr Nikolayevich Radishchev (tiếng Nga: Алекса́ндр Никола́евич Ради́щев) (31 tháng 8 năm 1749 – 24 tháng 9 năm 1802) – là nhà văn, nhà triết học, nhà thơ Nga, hiệu trưởng trường hải quan Saint Petersburg, người tham gia soạn nhiều bộ luật và từng bị đày đi Siberia.

Tiểu sử:
Aleksandr Radishchev là con đầu lòng của quí tộc Nicolai Radishchev (1728—1806). Thuở nhỏ từng được những đầy tớ trong nhà kể cho nghe những câu chuyện về nổi khổ của tầng lớp nông dân. Những câu chuyện này khơi dậy trong lòng cậu bé sự căm ghét chế độ áp bức. Năm lên 7 tuổi được một người Pháp dạy ngôn ngữ và những khái niệm đầu tiên về triết học. Năm 1762 vào học trường Thiếu sính quân ở Saint Petersburg. Từ năm 1766 đến 1770 học luật ở Đại học Leipzig, Đức. Những năm học ở Đức, Aleksandr Radishchev say mê môn triết học, ông nghiên cứu chủ nghĩa kinh nghiệm nhất nguyên và các nhà triết học tiêu biểu của Thế kỷ Ánh sáng. 

Sau khi trở về Nga, ông làm việc ở Thượng viện sau đó ở Phòng thương mại và tham gia tích cực vào đời sống văn học của thủ đô. Aleksandr Radishchev in nhiếu tác phẩm dịch và sáng tác nhưng tất cả bỗng thay đổi sau khi in Cuộc hành trình từ Peterburg về Moskva (Путешествие из Петербурга в Москву) vào năm 1790. Đấy là tác phẩm phê phán mạnh mẽ chế độ nông nô và mô tả những cảnh đau thương và bất công trong xã hội Nga lúc đó. Radishchev bị coi là tên tội phạm quốc gia, bị tòa kết án tử hình, sau được đổi thành chuyến đi đày ở Siberia, ở tháp Ilimsk trong 10 năm. Thời gian này ông tiếp tục sáng tác và viết các tác phẩm triết học như Về cái chết và sự bất tử của con người (О человеке, о его смертности и бессмертии,1790-1792), Câu chuyện tóm lược về chuyện sở hữu Siberia (Сокращенное повествование о приобретении Сибири). 

Năm 1796 hoàng đế Pavel I cho Radishchev về trang trại của mình ở Kaluga. Năm 1801 hoàng đế Aleksandr I cho phép ông chuyển về thủ đô Saint Petersburg. Những năm cuối đời ông soạn một số bộ luật, nếu ra sự cần thiết phải cải cách và xóa bỏ chế độ nông nô. Aleksandr Radishchev mất ở Saint Petersburg ngày 24 tháng 9 năm 1802.

Thư mục:
• Радищев А. Н. Путешествие из Петербурга в Москву. — СПб.: б. и., 1790. — 453 с.
• Радищев А. Н. Полное собрание сочинений А. Радищева / Ред., вступ. ст. и прим.
В. В. Каллаша. Т. 1. — М.: В. М. Саблин, 1907. — 486 с.: п., То же Т. 2. — 632 с.: ил.
• Радищев А. Н. Полное собрание сочинений. Т. 1 — М.; Л.: Академия наук СССР, 1938. — 501 с.: п. То же Т. 2 — М.; Л.: Академия наук СССР, 1941. — 429 с.


................................

Một số bài thơ



NHỮNG DÒNG THƠ SAPPHO
(Сафические строфы)

Đê
m dịu mát, bầu trời như ánh lên
Sao dập dờn, dòng suối trôi lặng lẽ
Gió thổi nhẹ, lao xao từng chiếc lá
Trắng xóa những hàng dương.

Em đã thề chung thủy đến ngàn năm
Thề với anh trong cái đêm thần thánh 
Cơn gió phương bắc một lần thổi mạnh
Thề nguyện biến mất tăm.

Tại vì sao em thề nguyện dối gian
Thà nghiệt ngã nhưng trong lòng thấy nhẹ
Em quyến rũ bằng say mê đáp trả
Khiến người khác bỏ mình.

Giết đời đi, hỡi số kiếp dữ dằn
Hoặc nhắc nàng nhớ lời thề chung thủy.
Hãy hạnh phúc, nếu như người có thể
Sống cuộc sống thiếu tình.




Сафические строфы

Ночь была прохладная, светло в небе
Звезды блещут, тихо источник льется,
Ветры нежно веют, шумят листами
Тополы белы.

* * *
Ты клялася верною быть во веки
Мне богиню нощи дала порукой;
Север хладной дунул один раз крепче, —
Клятва исчезла.

* * *
Ах! почто быть клятвопреступной!.. Лучше
Будь всегда жестока, то легче будет
Сердцу. Ты, маня лишь взаимной страстью,
Ввергла в погибель.

* * *
Жизнь прерви, о рок! рок суровой, лютой,
Иль вдохни ей верной быть в клятве данной.
Будь блаженна, если ты можешь только
Быть без любови.



TA ĐI VỀ THÁP ILIMSK
(Ты хочешь знать: кто я? что я? куда я еду?)

Ngươi muốn biết: ta là ai? ta là gì? ta đi đâu?
Ta là kẻ đã từng và sẽ sống theo thế kỷ.
Không súc vật, chẳng cây, không nô lệ, nhưng người!
Ta đi trên con đường chưa từng có dấu vết chân ai
Dành cho những ai gan dạ trong văn và thơ cũng vậy
Chân lý và những con tim nhạy cảm làm cho ta sợ hãi
Ta đi về tháp Ilimsk.


Ты хочешь знать: кто я? 

Ты хочешь знать: кто я? что я? куда я еду?
Я тот же, что и был и буду весь мой век.
Не скот, не дерево, не раб, но человек!
Дорогу проложить, где не бывало следу,
Для борзых смельчаков и в прозе и в стихах,
Чувствительным сердцам и истине я в страх
           В острог Илимский еду.