Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2017

Thơ Arseny Tarkovsky


Arseny Alexandrovich Tarkovsky (tiếng Nga: Арсений Александрович Тарковский, 25 tháng 6 năm 1907 – 27 tháng 5 năm 1989) – là dịch giả, nhà thơ Nga. Ông được coi là một nhà thơ lớn của Nga thế kỷ XX. Ông cũng là cha của đạo diễn phim nổi tiếng Andrei Tarkovsky.

Tiểu sử:
Arseny Tarkovsky sinh Elisavetgrad (nay thuộc tỉnh Kherson, Cộng hòa Ukraina). Bố làm việc ngân hàng nhưng tham gia vào các cuộc khởi nghĩa những năm 1880 nên bị đi tù 3 năm và sau đó bị đày đi vùng Sibêri. Khi được trở về Elisavetgrad ông cũng đi làm báo, viết bài cho các báo Elisavetgrad và Odessa.

Năm 1923 Arseny Tarkovsky đến Moskva với cô (chị của bố). Năm 1925 vào học trường viết văn và tốt nghiệp năm 1929. Thập niên 1920 vừa là cộng tác của báo Гудок, vừa học trường viết văn vừa sáng tác thơ, văn. Năm 1931 làm việc Đài phát thanh và viết một số vở kịch. Năm 1933 ông tập trung dịch thơ của các nhà thơ phương Đông và kết quả là đã đ lại nhiều bản dịch thơ nổi tiếng của các nhà thơ -rập, Gruzia, Armenia

Thời kỳ Thế chiến II Arseny Tarkovsky làm tờ báo quân đội Боевая тревога nhưng không in thơ của mình mà chỉ đến ngày tròn 50 tuổi ông mới in ra. Hai mươi năm tiếp theo đó ông in 6 tập thơ: "Перед снегом" (1962); "Земле земное" (1966); "Вестник" (1969); "Стихотворения" (1974); "Зимний день" (1980); "Избранное" (1982).

Năm 1983 ông in tập Стихи разных лет gồm những bài thơ hay chưa từng in các tập trước đây. Cuốn sách cuối cùng От юности до старости của ông được tặng Giải thưởng Nhà nước Liên Xô tháng 11 năm 1989 (sau khi chết). Tháng 2 năm 2008 Hội đồng thành phố Moskva tuyên bố sẽ xây dựng xong bảo tàng về hai cha con Arseny và Andrei Tarkovsky và sẽ mở cửa vào năm 2011.

Tác phẩm:
*Перед снегом (1962)
 
*Земле — земное (1966)
 
*Вестник (1969)
 
*Волшебные горы (1978)
 
*Зимний день (1980)
 
..............................

...............................



Một số bài thơ

MƯA ĐÊM

Đ
ấy là chuyện về những giọt mưa rơi
Bay từ trong ánh sáng vào bóng tối.
Theo ý của cái lần đầu tiên ấy
Mình gặp nhau trong một buổi xấu trời.

Và chỉ những cầu vồng trong màn sương
Quanh những ngọn đèn lắt lay, mờ mịt
Chúng đã từng báo cho em biết trước
Một điều rằng thân thiết mối tình anh.

Về điều rằng mùa hè đã qua nhanh
Rằng cuộc sống âu lo và tươi sáng
Và dù em đã sống, nhưng ít lắm
Em hãy còn sống ít trần gian.

Những giọt mưa như nước mắt long lanh
Mưa trên gương mặt của em lấp lánh
Mà anh vẫn hãy còn chưa biết đến
Ta sẽ sống qua bao sự điên cuồng.

Anh nghe giọng nói của em xa xăm
Hai chúng mình không giúp gì nhau được
Mưa suốt đêm trên mái nhà gõ đập
Như ngày nào đã từng gõ suốt đêm.


Ночной дождь

То были капли дождевые,
Летящие из света в тень.
По воле случая впервые
Мы встретились в ненастный день.

И только радуги в тумане
Вокруг неярких фонарей
Поведали тебе заране
О близости любви моей,

О том, что лето миновало,
Что жизнь тревожна и светла,
И как ты ни жила, но мало,
Так мало на земле жила.

Как слёзы, капли дождевые
Светились на лице твоём,
А я ещё не знал, какие
Безумства мы переживём.

Я голос твой далёкий слышу,
Друг другу нам нельзя помочь,
И дождь всю ночь стучит о крышу,
Как и тогда стучал всю ночь.


ANH SỢ

Anh sợ là đã quá muộn màng
Đ
anh đi mơ về niềm hạnh phúc
Anh sợ là đã quá muộn màng
Nhoài người về phía của em
Xa lạ và tối đen như mực.

Anh đã từng biết cái đêm
Cái đêm tôi tăm, không ánh lửa
Và anh đã từng biết đến em
Không lặng yên và rất tươi trẻ
Trong những khi em chẳng có anh.

Anh từng biết, như bao người khác
Trong giờ muộn màng của nỗi buồn anh
Anh từng biết, như bao người khác
Đ
ang nhìn vào đôi mắt rất đen
Những con mắt thật là tai ác.

Và trong cái đêm ghen tỵ của anh
Những gót giày của em gõ nhịp
Và trong cái đêm ghen tỵ của anh
Cơn ấm nồng đầu tiên ngây ngất
Thở dồn trên ngực của em.

Anh từng một thuở trẻ trung
Và em đến từ bao đêm ấy
Anh từng một thuở trẻ trung
Hiểu cái lạnh ngạt hơi đến vậy
Và nước lạnh mùa xuân trong máu của em.


Я боюсь, что слишком поздно
        Т.О. - Т.

Я боюсь, что слишком поздно
Стало сниться счастье мне.
Я боюсь, что слишком поздно
Потянулся я к беззвездной
И чужой твоей стране.

Мне-то ведомо, какою -
Ночью темной, без огня,
Мне-то ведомо, какою
Неспокойной, молодою
Ты бываешь без меня.

Я-то знаю, как другие,
В поздний час моей тоски,
Я-то знаю, как другие
Смотрят в эти роковые,
Слишком темные зрачки.

И в моей ночи ревнивой
Каблучки твои стучат,
И в моей ночи ревнивой
Над тобою дышит диво -
Первых оттепелей чад.

Был и я когда-то молод.
Ты пришла из тех ночей.
Был и я когда-то молод,
Мне понятен душный холод,
Вешний лед в крови твоей.


GIÁ ĐƯỢC NHƯ NGÀY XƯA

Giá được như ngày xưa, từng kiêu hãnh
Thì anh đã bỏ lại em đến muôn đời.
Tất cả những gì không đáng mang theo
Và tất cả những gì không nên bỏ lại 
Vương quốc của anh giờ hai nửa chia đôi.

Thì anh sẽ nói rằng:
-
Em mang đi theo mình
Một trăm lời hứa, một trăm ngày lễ
Một trăm lời. Cái này thì em có thể mang.

Chỉ còn lại cho anh lạnh lẽo bình minh
Và một trăm chuyến tàu đến muộn
Một trăm giọt mưa trên đường tàu điện
Một trăm ngõ, một trăm phố và một trăm
Giọt nước mưa chạy theo vết của em.


Если б, как прежде, я был горделив

Если б, как прежде, я был горделив,
Я бы оставил тебя навсегда;
Все, с чем расстаться нельзя ни за что,
Все, с чем возиться не стоит труда,-
Надвое царство мое разделив.

Я бы сказал:
          - Ты уносишь с собой
Сто обещаний, сто праздников, сто
Слов. Это можешь с собой унести.

Мне остается холодный рассвет,
Сто запоздалых трамваев и сто
Капель дождя на трамвайном пути,
Сто переулков, сто улиц и сто
Капель дождя, побежавших вослед.


TỪ SÁNG SỚM

Từ sáng sớm, anh đợi từ hôm qua
Em không đếnmọi người đoán thế
Em còn nhớ không, tiết trời khi đó?
Như ngày vui! Anh không mặc bành tô.

Hôm nay em đến, trời dành cho ta
Một ngày âm u rất là đặc biệt
Mưa, và đặc biệt là trong giờ chót
Chạy theo nhánh cành những giọt nước mưa.

Không có lời an ủi, không khăn đ lau khô… 


С утра я тебя дожидался вчера

С утра я тебя дожидался вчера,
Они догадались, что ты не придешь,
Ты помнишь, какая погода была?
Как в праздник! И я выходил без пальто.

Сегодня пришла, и устроили нам
Какой-то особенно пасмурный день,
И дождь, и особенно поздний час,
И капли бегут по холодным ветвям.

Ни словом унять, ни платком утереть...


NGÀY 25 THÁNG 6 NĂM 1935

Không quan trọng ngày lễ của tôi có màu xám hay màu đ
Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng trên cửa sổ luôn có hoa hồng
Không phải là sự biết ơn, mà tình cảm đ đầy như thế
Trong cái ngày này tôi luôn có được thường xuyên.
Mà nếu tôi không đúng, thì hãy nói vì sao tôi lại cần
Sự yên lặng của cỏ hoa, tình bạn của những khu rừng nhỏ
Những mũi tên của cánh chim, và tiếng suối rì rào thỏ thẻ
Giống như lời tỏ tình của những người vừa điếc lại vừa câm?


25 июня 1935

Хорош ли праздник мой, малиновый иль серый,
Но все мне кажется, что розы на окне,
И не признательность, а чувство полной меры
Бывает в этот день всегда присуще мне.
А если я не прав, тогда скажи - на что же
Мне тишина травы и дружба рощ моих,
И стрелы птичьих крыл, и плеск ручьев, похожий
На объяснение в любви глухонемых?


Thứ Năm, 2 tháng 2, 2017

Thơ Mark Lisyansky


Mark Samoylovich Lisyansky (tíếng Nga: Марк Самойлович Лисянский, 13 tháng 1 năm 1913 – 30 tháng 8 năm 1993) – nhà thơ Nga, tác giả lời của nhiều bài hát nổi tiếng, trong đó có Bài ca chính thức của Thủ đô Nga (гимн столицы России). 

Tiểu sử:
Mark Lisyansky sinh ở Odessa (nay là Cộng hòa Ucraina). Tuổi thơ sống ở thành phố Nikolaiev cho đến ngày học xong trung học. Những năm 1929 – 1932 làm thợ ở nhà máy đóng tàu Nikolaiev. Từ 1932 đến 1934 học ở trường Báo chí Moskva. Sau khi tốt nghiệp làm biên tập ở nhiều tờ báo của các tỉnh Ivanova, Yaroslavl… Năm 1940 xuất bản tập thơ đầu tiên Берег ở Yaroslavl.

Những năm Chiến tranh Vệ quốc Mark Lisyansky phục vụ trong quân đội. Đầu tiên làm trung đội trưởng tháo gỡ bom mìn, sau làm biên tập tờ báo Vào trận đánh vì Tổ quốc (В бой за Родину) và làm phóng viên chiến trường của nhiều tờ báo khác. Thơ viết ở chiến trường in trong các tập Моя земля, 1942; Фронтовая весна, 1942; От имени Черного моря, 1947. 

Sau chiến tranh Mark Lisyansky sống ở Moskva. Ông là tác giả của các tập thơ: Моя земля, Золотая моя Москва, За весной весна, Такое время, За горами, за лесами, Спасибо… Ông cũng là tác giả phần lời của rất nhiều bài hát nổi tiếng từ thời chiến tranh cho đến tận ngày nay. Bài thơ Mát-xcơva của ta (Моя Москва) in ở tạp chí Thế giới mới năm 1941 được nhạc sĩ Isaak Dunayevsky phổ nhạc trở thành một biểu tượng của cuộc chiến chống phát xít xâm lược. Ngày 5 tháng 7 năm 1995 Hội đồng thành phố Moskva đã quyết định lấy bài hát này làm Bài ca chính thức của Thủ đô Nga.

Mark Lisyansky mất ngày 30 tháng 8 năm 1993 ở Moskva.


Một số bài thơ




TÌNH YÊU LÀ GÌ?

Chúng mình chia tay trong ánh hoàng hôn
Còn buổi chiều như ngôi sao xa lắc.
Tình yêu là gì? Đó là gặp mặt
Đến tận cùng, suốt thế kỷ, muôn năm.

Con tàu đang bơi về chốn xa xăm
Không đi khỏi những bàn tay lưu luyến.
Bởi tình yêu không có bờ có bến
Bởi tình yêu không ly biệt cách ngăn.

Không hề có… Giã biệt! Chỉ tiếng vang
Của lời “giã biệt” nhắc đi nhắc lại!
Xa tình yêu không một ai đi khỏi
Không một ai đi khỏi được với tình.

Không ai, không gì thay thế được em
Anh và em – xa mà gần là thế.
Tình yêu là gì? Đó là gặp gỡ
Đến tận cùng, suốt thế kỷ, muôn năm.


На заре мы расстались, а вечер

На заре мы расстались, а вечер
Так далек, как звезда далека.
Что такое любовь? Это встреча
Навсегда, до конца, на века.

Теплоход в долгий рейс уплывает -
Не уйти от протянутых рук.
У любви берегов не бывает,
У любви не бывает разлук.

Не бывает... Прощай! Только эхо
Повторяет «прощай» и «прости»!
От любви никуда не уехать,
От любви никуда не уйти.

Заменить тебя некем и нечем.
Я с тобой - далека и близка.
Что такое любовь? Это встреча
Навсегда, до конца, на века.


MOSKVA CỦA TA
(Bài ca chính thức của Thủ đô Nga)

Thế gian này nhiều nơi đã từng đi
Từng ở rừng, trong chiến hào, công sự
Từng bị chôn sống đôi ba lần có lẻ
Từng yêu trong u sầu, từng hiểu biệt ly.

Nhưng ta quen tự hào về Mát-xcơva
Dù ở đâu ta vẫn luôn nhắc mãi:
Mát-xcơva thành phố vàng của ta
Thủ đô của ta, thủ đô yêu dấu!

Ta yêu những khu rừng nhỏ ngoại ô
Yêu những cây cầu trên sông thành phố
Yêu quảng trường của người – Quảng trường Đỏ
Và ta yêu tiếng chuông của đồng hồ.

Ở những thành phố, ở những vùng xa
Ta nghe tiếng về thủ đô yêu dấu
Mát-xcơva thành phố vàng của ta
Thủ đô của ta, thủ đô yêu dấu!

Ta nhớ về một mùa thu khốc liệt
Lê sáng bừng và tiếng rú xe tăng
Và tiếng thơm còn vọng mãi ngàn năm
Hai mươi tám người con anh dũng nhất.

Và kẻ thù không bao giờ có thể
Bắt cúi đầu nổi thành phố của ta
Mát-xcơva thành phố vàng của ta
Thủ đô của ta, thủ đô yêu dấu!


Моя Москва

Я по свету немало хаживал,
Жил в землянке, в окопах, в тайге,
Похоронен был дважды заживо,
Знал разлуку, любил в тоске.

Но Москвою привык я гордиться
И везде повторял я слова:
Дорогая моя столица,
Золотая моя Москва!

Я люблю подмосковные рощи
И мосты над твоею рекой,
Я люблю твою Красную площадь
И кремлёвских курантов бой.

В городах и далёких станицах
О тебе не умолкнет молва,
Дорогая моя столица,
Золотая моя Москва!

Мы запомним суровую осень,
Скрежет танков и отблеск штыков,
И в веках будут жить двадцать восемь
Самых храбрых твоих сынов.

И врагу никогда не добиться,
Чтоб склонилась твоя голова,
Дорогая моя столица,
Золотая моя Москва!

Thơ Karolina Pavlova


Karolina Karlovna Pavlova (họ trước khi lấy chồng: Jänisch, tiếng Nga: Кароли́на Ка́рловна Па́влова - Каролина Павлова-Яниш)(10 tháng 7 năm 1807 – 2 tháng 12 năm 1893) – là nữ nhà thơ Nga gốc Đức.

Tiểu sử:
Karolina Pavlova sinh ở Yaroslavl. Bố là một giáo sư ngành y rất yêu hội họa và văn học. Karolina được dạy dỗ đến nơi đến chốn. Từ nhỏ đã thông thạo 4 ngoại ngữ và nổi tiếng khắp Moskva là “một thiếu nữ tài năng và đa tài”. Năm 1825 Karolina Pavlova gặp nhà thơ Adam Mickiewicz ở Moskva. Hai người yêu nhau và định làm đám cưới nhưng bố của Karolina phản đối. Ông không muốn con gái mình kết hôn với nhà thơ nghèo lại đang theo đuổi chuyện chính trị (kêu gọi dân Ba Lan khởi nghĩa chống lại ách thống trị của Nga hoàng). Sau đó Adam Mickiewicz rời Moskva và từ đó hai người không còn gặp nhau nữa. Mối tình này được thể hiện trong nhiều bài thơ của Karolina Pavlova. Sau này bà viết cho con trai của Adam Mickiewicz: “Hồi tưởng về tình yêu này là niềm hạnh phúc đối với tôi”.

Năm 1833 in cuốn Das Nordlicht… Proben der neueren russischen Literatur (Ánh sáng phương Bắc. Những hình ảnh của văn học Nga mới) ở Đức gồm các bản dịch thơ của Aleksandr Sergeyevich Pushkin, Vasily Andreyevich Zhukovsky, Evgeny Abramovich Baratynsky, Anton Antonovich Delvig… và một số bài hát dân gian cùng với 10 bài thơ sáng tác bằng tiếng Đức. Năm 1835 đăng trên tạp chí Revue Germanique của Pháp bản dịch Die Jungfrau von Orléans của Friedrich Schiller ra tiếng Pháp. Năm 1839 bà xuất bản ở Paris cuốn Les preludes gồm các bản dịch thơ của các nhà thơ Nga và Anh, Đức sang tiếng Pháp. 

Năm 1937 nhờ món tài sản thừa kế rất lớn của người cậu nên Karolina Pavlova mặc dù lúc nhan sắc đã không còn mặn mà nhưng vẫn cưới được nhà văn Nicolay Pavlov đang rất nổi tiếng lúc đó. Sau này chính Nicolay Pavlov đã thú nhận rằng “sai lầm lớn nhất trong đời là cưới vợ vì tiền”. Đến đầu thập niên 1850 thì cuộc hôn nhân này tan vỡ cùng với những vụ xì-căng-đan. Năm 1853 bà đi sang Đức rồi Pháp, Thụy Sĩ. Từ năm 1861 trở về Dresden sống thường xuyên, thỉnh thoảng mới về thăm nước Nga trong vài ngày. Karolina Pavlova mất ở Dresden, Đức.

Thư mục:
*Павлова К. Полное собрание стихотворений.
М. — Л., 1964
*Павлова К.
 Стихотворения. М., 1985
*Файнштейн М.Ш.
 К.К.Павлова. — В кн.: Файнштейн М.Ш. Писательницы пушкинской поры. Л., 1989
*Кони А.Ф.
 К.Павлова. — В кн.: Кони А.Ф. Воспоминания о писателях. М., 1989

Một số bài thơ


EM BÂY GIỜ CÓ SUY NGHĨ VỀ ANH

Em bây giờ có suy nghĩ về anh
Không lầm lỗi, dù có phần buồn bã!
Lòng em hướng về miền đất xa xăm
Về số phận đã từ lâu xa lạ.

Nhiều năm quavà những ngày đau khổ
Và ngày vui chưa từng gặp một lần
Rất nhiều nămvà còn hơn thế nữa
Biến cố làm thay đổi em và anh.

Anh và em chia tay không như thế
Ta chia tay – thi sĩ, còn nhớ chăng?
Món quà hạnh phúc là do phận số
Mà, có thể là: có, có thể - không!

Ai đã từng có ảo ảnh màu hồng
Những giấc mơ cầu toàn và kiêu hãnh?
Ai từng ngăn lại phút giây xúc cảm
Ánh hoàng hôn, những ngọn sóng triều dâng?

Ai không bảo vệ? Sợ hãi, lặng câm
Trước thần tượng đã không còn uy tín?...


К тебе теперь я думу обращаю

К тебе теперь я думу обращаю,
Безгрешную, хоть грустную,— к тебе!
Несусь душой к далекому мне краю
И к отчужденной мне давно судьбе.

Так много лет прошло,— и дни невзгоды,
И радости встречались дни не раз;
Так много лет,— и более, чем годы,
События переменили нас.

Не таковы расстались мы с тобою!
Расстались мы,— ты помнишь ли, поэт?—
А счастья дар предложен был судьбою;
Да, может быть, а может быть — и нет!

Кто ж вас достиг, о светлые виденья!
О гордые, взыскательные сны?
Кто удержал минуту вдохновенья?
И луч зари, и ток морской волны?

Кто не стоял? испуганно и немо,
Пред идолом развенчанным своим?..


VỀ CÁI CŨ XƯA

Về cái cũ xưa, những gì đã chết
Ý nghĩ lặng câm đè nặng trong lòng
Trong cuộc đời tôi gặp bao cái ác
Và biết bao tình cảm đã xài hoang
Nhiều hy sinh cho mình không đúng lúc.

Tôi lại bước đi sau mỗi sai lầm
Mà lãng quên bài học đời nghiệt ngã
Tôi bất lực, lầm lẫn giữa đời thường
Tin vào nước mắt, nụ cười, lời nói
Trí tuệ không dứt được khỏi trái tim.

Và tâm hồn và số phận cứng đầu
Giữa những khổ đau đã giành phần thắng
Vào thành công tôi hãy còn tin tưởng
Như con bạc kiên nhẫn và đời chờ
Ngày hạnh phúc, tôi dõi theo ngày tháng.

Kho báu này tiếp theo kho báu khác
Tôi vứt ra mà chẳng thấy thành công
Những kẻ hạnh phúc, những kẻ ngồi gần
Nhìn bằng ánh mắt tham lam, ác độc
Liệu hồn kiên gan có đổi thay chăng?


О былом, о погибшем, о старом

О былом, о погибшем, о старом
Мысль немая душе тяжела;
Много в жизни я встретила зла,
Много чувств я истратила даром,
Много жертв невпопад принесла.

Шла я вновь после каждой ошибки,
Забывая жестокий урок,
Безоружно в житейские ошибки:
Веры в слезы, слова и улыбки
Вырвать ум мой из сердца не мог.

И душою, судьбе непокорной,
Средь невзгод, одолевших меня,
Убежденье в успех сохраня,
Как игрок ожидала упорный
День за днем я счастливого дня.

Смело клад я бросала за кладом,-
И стою, проигравшися в пух;
И счастливцы, сидящие рядом,
Смотрят жадным, язвительным взглядом -
Изменяет ли твердый мне дух? 



NHÂN SƯ

Ê-đíp, than ôi, là một kẻ hành hương
Và Nhân sư trên đường đời đang đợi
Nhìn vào mắt anh vô cùng nghiệt ngã
Không cho một ai được phép qua đường. 

Như thời xưa, ta con cháu sau này
Nhân sư bây giờ vẫn còn hung dữ
Luôn với câu hỏi ác nghiệt lắm thay
Ôi người đẹp với mặt người, mình thú.

Ai trong chúng ta tin mình uổng phí
Không giải ra một câu hỏi chết người
Ai mất tinh thần, người này sẽ bị
Móng vuốt cào thay vì được bờ môi.

Và con đường khắp nơi đẫm máu người
Và xương rơi, rải đầy khắp đất nước
Đến Nhân sư với tình yêu bí mật
Nhưng bây giờ bộ lạc khác đến đây.
1831
__________
*Nhân sư và Ê-đíp (Oedipus) là một truyền thuyết nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại về vị vua huyền thoại của Thebes. Một người anh hùng có số phận bi thảm trong thần thoại Hy Lạp. Trở về sau một thời gian dài vắng bóng ở quê nhà, Ê-đíp gặp Nhân sư – nửa người nửa thú, Nhân sư ra một câu đố: “Con gì sáng đi bằng 4 chân, trưa đi bằng 2 chân, tối đi bằng 3 chân?”. Người không giải được câu đố này sẽ bị Nhân sư giết chết. Tuy nhiên, Ê-đíp đã trả lời rằng đây là con người. Con người bò ở tuổi hài nhi, sau đó đi bằng hai chân và ở tuổi già – dựa vào cây gậy chống. Câu đố của Nhân sư theo nghĩa bóng đề cập đến các vấn đề quan trọng và khó giải quyết nhất trong cuộc sống của mỗi con người. 

Сфинкс

Эдипа сфинкс, увы! он пилигрима
И ныне ждет на жизненном пути,
Ему в глаза глядит неумолимо
И никому он не дает пройти.

Как в старину, и нам, потомкам поздним,
Он, пагубный, является теперь,
Сфинкс бытия, с одним вопросом грозным,
Полукрасавица и полузверь.

И кто из нас, в себя напрасно веря,
Не разрешил загадки роковой,
Кто духом пал, того ждут когти зверя
Наместо уст богини молодой.

И путь кругом облит людскою кровью,
Костями вся усеяна страна...
И к сфинксу вновь, с таинственной любовью,
Уже идут другие племена.



DẠ KHÚC

Anh – người em yêu thương
Quen dần trong đầu óc
Anh là tình, sức lực –
Hãy ngủ trong yên bình!

Anh là sức, là tình
Là ánh sáng soi đường
Những gì đời hứa hẹn –
Hãy ngủ trong yên bình!

Những gì đời cho em
Cứ mối ngày phí uổng
Tất cả là mê sảng –
Hãy ngủ trong yên bình!

Cả mê sảng tuổi xanh
Về hạnh phúc trần thế
Đều là do phận số -
Hãy ngủ trong yên bình!

Do phận số tạo nên
Tất cả trong một hình
Một hành tinh đang cháy –
Hãy ngủ trong yên bình!

Một hành tinh cháy lên
Tia sáng vui cho em
Dù bão giông đe dọa –
Hãy ngủ trong yên bình!

Dù đe dọa bão giông
Dù gió lốc, sấm sét
Cánh buồm em xuyên suốt –
Hãy ngủ trong yên bình!
1851

Серенада

Ты все, что сердцу мило,
С чем я сжился умом:
Ты мне любовь и сила,-
Спи безмятежным сном!

Ты мне любовь и сила,
И свет в пути моем;
Все, что мне жизнь сулила,-
Спи безмятежным сном.

Все, что мне жизнь сулила
Напрасно с каждым днем;
Весь бред младого пыла,-
Спи безмятежным сном.

Весь бред младого пыла
О счастии земном
Судьба осуществила,-
Спи безмятежным сном.

Судьба осуществила
Все в образе одном,
Одно горит светило,-
Спи безмятежным сном!

Одно горит светило
Мне радостным лучом,
Как буря б ни грозила,-
Спи безмятежным сном!

Как буря б ни грозила,
Хотя б сквозь вихрь и гром
Неслось мое ветрило, -
Спи безмятежным сном!