Cherubina de Gabriak (tiếng Nga: Черубина де Габриак – là bút danh của Elisaveta Ivanovna Dmitrieva - Елизавета Ивановна
Дмитриева) (31 tháng 3 năm 1887 – 5 tháng 12 năm 1928) – nữ nhà thơ Nga thế kỷ bạc. Nhà văn Aleksei Tolstoy gọi Cherubina de Gabriak “là một trong những gương mặt kỳ diệu và đau buồn nhất của văn học Nga”.
Tiểu sử:
Cherubina de Gabriak sinh ở Saint Petersburg, trong một gia đình quí tộc. Bố chết sớm vì bệnh lao phổi, Cherubina de Gabriak lên 7 tuổi cũng mắc bệnh này và hậu quả là bị bệnh đi cà nhắc suốt đời. Năm 1904 tốt nghiệp trường gymnazy, năm 1908 tốt nghiệp Đại học sư phạm, chuyên ngành lịch sử trung đại và văn học trung cổ Pháp. Sau đấy bà tiếp tục theo học về văn học Tây Ban Nha và tiếng Pháp cổ ở Đại học Saint Petersburg và Đại học Sorbonne, làm quen với Nicolai Gumilyov ở Pháp.
Sau khi trở về Saint Petersburg bà dạy ngôn ngữ ở trường gymnazy chỉ dành cho phái nữ, in thơ dịch từ tiếng Tây Ban Nha ở các tạp chí và trở thành bạn thân của nhà thơ Maximilia Aleksandrovich Voloshin. Mùa hè năm 1909 Cherubina de Gabriak đến trại sáng tác dành cho văn nghệ sĩ của Maximilia Voloshin ở Koktebel (vùng Krym). Chính nơi đây đã sinh ra ý tưởng dùng bút danh Cherubina de Gabriak và ý tưởng văn học mê hoặc của một nữ sĩ, người đẹp Công giáo bí ẩn. Từ năm 1909 thơ của bà thường xuyên được in ở tạp chí Apollo và có được sự thành công vang dội trên văn đàn, được các nhà thơ nổi tiếng đương thời như Innokentiy Fyodorovich Annensky và Vyacheslav Ivanovich Ivanov đánh giá cao.
Cuối năm 1909 nhà thơ Mikhail Alekseevich Kuzmin tìm hiểu sự thật của hiện tượng Cherubina de Gabriak và sự việc trở thành một xì-căng-đan. Năm 1911 Cherubina de Gabriak đi lấy chồng và thường xuyên đi du lịch ở Đức, Thụy Sĩ, Phần Lan, Gruzia. Năm 1921 bà cùng với chồng phải rời Petrograd về Ekaterinoda. Ở đây bà làm quen với Samuil Marshak và cùng sáng tác kịch cho thiếu nhi.
Năm 1926 bà bị đày về Taskent. Thời gian này bà vẫn tiếp tục sáng tác và dịch thuật. Cherubina de Gabriak mất ngày 5 tháng 12 năm 1928 ở Taskent vì bệnh ung thư phổi.
Thư mục:
*Калло Е. Четыре имени в русской поэзии. В кн.: «Sub rosa»: Аделаида Герцык, София Парнок, Поликсена Соловьёва, Черубина де Габриак / Сост., коммент. Т. Н. Жуковской, Е. А. Калло. — М., Эллис Лак, 1999. — 768 с. — ISBN 5-88889-038-3
*Агеева, Л. И. Неразгаданная Черубина: Документальное повествование. М.: Дом-музей Марины Цветаевой, 2006. — 404 с.
*Черубина де Габриак. Исповедь / Сост. Купченко В. П., Ланда М. С., Репина И. А. — М.: Аграф, 1999. — 384 с. (Символы времени).
*Из мира уйти неразгаданной: Жизнеописание; Письма 1908-1928 годов; Письма Б.А.Лемана к М.А.Волошину/ Сост., подг. текстов, примеч. Владимира Купченко и Розы Хрулевой. Феодосия; М.: Изд. дом "Коктебель", 2009
*Маршак С. Я., Е. И. Васильева. Театр для детей. Краснодар, 1922.
Tiểu sử:
Cherubina de Gabriak sinh ở Saint Petersburg, trong một gia đình quí tộc. Bố chết sớm vì bệnh lao phổi, Cherubina de Gabriak lên 7 tuổi cũng mắc bệnh này và hậu quả là bị bệnh đi cà nhắc suốt đời. Năm 1904 tốt nghiệp trường gymnazy, năm 1908 tốt nghiệp Đại học sư phạm, chuyên ngành lịch sử trung đại và văn học trung cổ Pháp. Sau đấy bà tiếp tục theo học về văn học Tây Ban Nha và tiếng Pháp cổ ở Đại học Saint Petersburg và Đại học Sorbonne, làm quen với Nicolai Gumilyov ở Pháp.
Sau khi trở về Saint Petersburg bà dạy ngôn ngữ ở trường gymnazy chỉ dành cho phái nữ, in thơ dịch từ tiếng Tây Ban Nha ở các tạp chí và trở thành bạn thân của nhà thơ Maximilia Aleksandrovich Voloshin. Mùa hè năm 1909 Cherubina de Gabriak đến trại sáng tác dành cho văn nghệ sĩ của Maximilia Voloshin ở Koktebel (vùng Krym). Chính nơi đây đã sinh ra ý tưởng dùng bút danh Cherubina de Gabriak và ý tưởng văn học mê hoặc của một nữ sĩ, người đẹp Công giáo bí ẩn. Từ năm 1909 thơ của bà thường xuyên được in ở tạp chí Apollo và có được sự thành công vang dội trên văn đàn, được các nhà thơ nổi tiếng đương thời như Innokentiy Fyodorovich Annensky và Vyacheslav Ivanovich Ivanov đánh giá cao.
Cuối năm 1909 nhà thơ Mikhail Alekseevich Kuzmin tìm hiểu sự thật của hiện tượng Cherubina de Gabriak và sự việc trở thành một xì-căng-đan. Năm 1911 Cherubina de Gabriak đi lấy chồng và thường xuyên đi du lịch ở Đức, Thụy Sĩ, Phần Lan, Gruzia. Năm 1921 bà cùng với chồng phải rời Petrograd về Ekaterinoda. Ở đây bà làm quen với Samuil Marshak và cùng sáng tác kịch cho thiếu nhi.
Năm 1926 bà bị đày về Taskent. Thời gian này bà vẫn tiếp tục sáng tác và dịch thuật. Cherubina de Gabriak mất ngày 5 tháng 12 năm 1928 ở Taskent vì bệnh ung thư phổi.
Thư mục:
*Калло Е. Четыре имени в русской поэзии. В кн.: «Sub rosa»: Аделаида Герцык, София Парнок, Поликсена Соловьёва, Черубина де Габриак / Сост., коммент. Т. Н. Жуковской, Е. А. Калло. — М., Эллис Лак, 1999. — 768 с. — ISBN 5-88889-038-3
*Агеева, Л. И. Неразгаданная Черубина: Документальное повествование. М.: Дом-музей Марины Цветаевой, 2006. — 404 с.
*Черубина де Габриак. Исповедь / Сост. Купченко В. П., Ланда М. С., Репина И. А. — М.: Аграф, 1999. — 384 с. (Символы времени).
*Из мира уйти неразгаданной: Жизнеописание; Письма 1908-1928 годов; Письма Б.А.Лемана к М.А.Волошину/ Сост., подг. текстов, примеч. Владимира Купченко и Розы Хрулевой. Феодосия; М.: Изд. дом "Коктебель", 2009
*Маршак С. Я., Е. И. Васильева. Театр для детей. Краснодар, 1922.
ANH CÒN NHỚ VƯỜN XƯA
Anh còn nhớ vườn xưa, nơi lần đầu tiên
Anh thổ lộ với em trong một ngày đầy nắng
Những cây thông non, những cây đoạn dịu dàng
Trải lên cát chiếc bóng dài đứt quãng.
Đấy chỉ một khoảnh khắc và rồi vụt biến
Anh cầm tay em – em rảo bước cùng anh
Ngày tháng bảy với ta mỉm cười âu yếm
Hai đứa mình – anh ở trong trái tim em.
Anh còn nhớ vườn xưa, bây giờ hoa lại nở
Như ngày ấy trong mơ cho hai đứa chúng mình
Nhưng lời đã quên, lời hạnh phúc ngày cũ
Thì anh đã đã không còn nhắc lại cùng em.
Ты помнишь старый сад
Ты помнишь старый сад, где ты сказал впервые
Мне про любовь свою в июльский светлый день,
И ветви нежных лип, и сосны молодые
Бросали на песок прерывистую тень.
То был лишь миг один, и скоро он промчался.
Ты руку взял мою, — мы шли с тобой вдвоем, —
И день, июльский день, нам нежно улыбался,
И были мы одни, — ты в сердце был моем.
Ты помнишь старый сад, теперь цветет он снова,
Как некогда он цвел для нас в блаженном сне, —
Но тех забытых слов, слов счастия былого
Ты не повторишь мне.
GỬI MAKOVSKY
Những bông hoa của anh… những bông hoa từ người bạn
Những bông hoa Tây Ban Nha yêu dấu của em.
Em khoanh chúng bằng đường giới hạn tròn
Một giấc mơ của mình rất sầu thảm.
Em làm say mê bằng ánh mắt đau buồn
Mười hai bông hoa cẩm chướng đang rực lửa
Để trước mắt em, bên những bông hoa đó
Từ bóng tối hiện về hình bóng của anh.
Và em sẽ nói… ồ không, không cần
Vì em không biết đến những lời lặng lẽ.
Và trong giây phút này em rất vui vẻ
Trước vẻ lặng im của hoa cẩm chướng dịu dàng.
Твои цветы... цветы от друга
С. Маковскому
Твои цветы... цветы от друга,
Моей Испании цветы.
Я их замкну чертою круга
Моей безрадостной мечты.
Заворожу печальным взглядом
Двенадцать огненных гвоздик,
Чтоб предо мною с ними рядом
Из мрака образ твой возник.
И я скажу... но нет, не надо,-
Ведь я не знаю тихих слов.
И в этот миг я только рада
Молчанью ласковых цветов.
NHỮNG BÔNG HOA MÀU TÍM
Mà mỗi ngày anh mang đến tặng em
Ôi những bông hoa ngây thơ sầu thảm
Những bông hoa của mối tình anh!
Đầu óc mê muội của anh không hiểu
Khoa học thanh tao, tinh tế của tình
Cái miệng nhỏ của em làm cho méo
Cả nụ cười chán ngắt của em.
Anh đã từng say mê dịu ngọt
Thuốc độc xưa của những hồn em
Nhưng em bằng ánh mắt mỏi mệt
Làm tàn phai những bông hoa không cần.
Темно-лиловые фиалки
Темно-лиловые фиалки
Мне каждый день приносишь ты;
О, как они наивно жалки,
Твоей влюбленности цветы.
Любви изысканной науки
Твой ум ослепший не поймет,
И у меня улыбкой скуки
Слегка кривится тонкий рот.
Моих духов старинным ядом
Так сладко опьянился ты,
Но я одним усталым взглядом
Гублю ненужные цветы.
DÙ Ở NƠI NÀO
Dù ở nơi nào ta bắt đầu gặp gỡ
Thì kết thúc cũng không phải ở đây!
Từ hồn em anh lấy đi ít quá
Anh đã cháy hết đâu!
Em và anh cứ lặng im, cứ im lặng dần dần
Chẳng lẽ về nguồn của bóng đêm đi tiếp?
Ô, nếu như mình không sáng hơn tia chớp
Thì điều gì sẽ xảy giữa em với anh?
Nếu ta là hai ngọn lửa, hai chén nước đầy
Thì với nỗi buồn nào đang nhìn ta Thượng Đế…
Dù ở nơi nào ta bắt đầu gặp gỡ
Thì kết thúc cũng không phải ở đây!
1921
Где б нашей встречи ни было начало
Где б нашей встречи ни было начало,
Ее конец не здесь!
Ты от души моей берешь так мало,
Горишь еще не весь!
И я с тобой всё тише, всё безмолвней.
Ужель идем к истокам той же тьмы?
О, если мы не будем ярче молний,
То что с тобою мы?
А если мы два пламени, две чаши,
С какой тоской глядит на нас Творец...
Где б ни было начало встречи нашей,
Не здесь - ее конец!
EM HÔN VÀ BIẾT RÕ
Em hôn và biết rõ
Rằng môi anh ngọt ngào
Môi kề môi trao nhau
Chẳng lỗi lầm gì cả.
Bờ môi từ nụ hôn
Càng dịu dàng, thắm đỏ
Vì sao anh thô lỗ
Nói những lời về em.
Giờ đã tắt bốn năm
Ngọn lửa đôi mắt xám
Ngọt hơn rượu, mật ong
Những giờ mình hò hẹn.
Anh còn nhớ bông hồng
Mọc trong tuyết, trên cổng
Em đã làm anh giận
Sao anh có thể tin.
1925
Да, целовала и знала
Да, целовала и знала
губ твоих сладких след,
губы губам отдавала,
греха тут нет.
От поцелуев губы
только алей и нежней.
Зачем же были так грубы
слова обо мне.
Погас уже четыре года
огонь твоих серых глаз.
Слаще вина и меда
был нашей встречи час.
Помнишь, сквозь снег над порталом
готической розы цветок,
Как я тебя обижала,
как ты поверить мог.
NGƯỜI TA ĐÓNG CỬA NHÀ TÔI
Người ta đóng cửa nhà ở của tôi
Và chìa khóa đã đánh mất mãi mãi
Thiên thần đen, thần hộ mệnh của tôi
Đứng trước cửa với thanh gươm sáng chói.
Nhưng vương miện và chiếc ngai màu đỏ
Nỗi buồn của tôi đã chẳng nhìn ra
Và ở trên một ngón tay thiếu nữ
Chiếc nhẫn của Solomon bằng thừa*.
Bóng tối của tôi không hề tỏa sáng
Bằng niềm tự hào của ngọc ru-bin
Bằng dấu vết xưa của ta tôi nhận
Tên thánh thiêng liêng của vị Minh thần.
1909
__________
*Nhẫn của Solomon – theo truyền thuyết vua Solomon có chiếc nhẫn với dòng chữ: “Tất cả rồi sẽ qua”.
Замкнули дверь в мою обитель
Замкнули дверь в мою обитель
навек утерянным ключом,
и черный Ангел, мой хранитель,
стоит с пылающим мечом.
Но блеск венца и пурпур трона
не увидать моей тоске,
и на девической руке -
ненужный перстень Соломона.
Не осветит мой темный мрак
великой гордости рубины...
Я приняла наш древний знак
святое имя Черубины.
CHỈ MỘT LẦN
Chỉ một lần, em như cây dương xỉ
Nở hoa màu lửa, say giữa đêm xuân…
Anh hãy đi theo em đến giữa rừng
Vòng tử thù, đến với em, hãy xé.
Hãy yêu em. Em với anh rất gần.
Hãy nhường nhịn cho tình em hư hỏng
Em như hạnh đào – chết chóc, cay đắng
Dịu dàng hơn cái chết, dối gian hơn.
1909
Лишь раз один, как папоротник, я
Лишь раз один, как папоротник, я
цвету огнем весенней, пьяной ночью...
Приди за мной к лесному средоточью,
в заклятый круг, приди, сорви меня.
Люби меня. Я всем тебе близка.
О, уступи моей любовной порче.
Я, как миндаль, смертельна и горька,
нежней чем смерть, обманчивей и горче.
CON TIM CỦA EM
Con tim của em như chiếc chén
Chén đựng rượu vang
Chính vì thế cuộc gặp của chúng mình
Không đầy đặn.
Trên tất cả mọi con đường em hái
Những bông hoa dành để tặng anh
Nhưng mà hoa của em ít ỏi
Anh thấy không.
Vòng hoa của em nghèo nàn
Anh hãy đem xé toạc!
Hãy nhìn xem, vòng hoa tái nhợt
Thiếu tình.
Con tim vỡ và tim máu đẫm
Con tim như thủy tinh.
Tất cả chỉ qua một cuộc tình
Là hết hạn.
1907
Мое сердце - словно чаша
Мое сердце - словно чаша
Горького вина,
Оттого, что встреча наша
Не полна.
Я на всех путях сбирала
Для тебя цветы,
Но цветы мои так мало
Видишь ты.
И венок, венок мой бедный
Ты уж сам порви!
Посмотри, какой он бледный
Без любви.
Надломилось, полно кровью
Сердце, как стекло.
Все оно одной любовью
Истекло.
BẠN HÃY LẮNG NGHE
Bạn hãy lắng nghe một giấc mơ đêm
Và nhớ đừng bỏ qua ngôi sao rụng…
Trên đường phố bằng chiếc bóng vô hình
Tôi sẽ đi theo sau bạn…
Bạn nhìn xem (tôi uể oải trên sa mạc
Ở rất xa những nơi chốn thân thương…)
Nước trên sông Nê-va giờ có còn xanh?
Trên tay Thiên thần vẫn còn cây thập ác?
1928
Прислушайся к ночному сновиденью
Прислушайся к ночному сновиденью,
не пропусти упавшую звезду...
по улицам моим Невидимою Тенью
я за тобой пройду...
Ты посмотри (я так томлюсь в пустыне
вдали от милых мест...):
вода в Неве еще осталась синей?
У Ангела из рук еще не отнят крест?
NHỮNG CON CHIM ĐEN BAY GIỮA TRỜI
Những con chim đen bay giữa trời
Cả ban ngày, buổi sáng
Còn đêm, trong giấc mộng
Tôi mơ thấy mình sắp chết đến nơi.
Thậm chí người ta gửi đến chưa lâu
Những giấc mơ thứ sáu – giấc mơ thật –
Một sứ giả đến từ nơi hạnh phúc –
Một vị thần có đôi mắt đen màu.
Và ngài bước đến bên giường của tôi
Rồi mỉm cười: “Ái chà, sao thế nhỉ
Ở bên chúng tôi hoa lan đã nở
Còn ngươi thì vẫn còn ở nơi đây?
Khi nào thì đến làm khách chúng tôi
Và làm khách ở có lâu không vậy?...”
Rồi sau đấy ngài lấy ra cây sáo
Được làm từ xương đặt lên môi tôi.
Đôi môi của tôi tái nhợt
Từ cái ngày này.
Chỉ cần sao cho hoa lan xinh đẹp
Sẽ không nở hoa nếu chẳng có tôi!
1926
Все летают черные птицы
Все летают черные птицы
И днем, и поутру,
А по ночам мне снится,
Что я скоро умру.
Даже прислали недавно —
Сны под пятницу — верные сны,—
Гонца из блаженной страны —
Темноглазого легкого фавна.
Он подошел к постели
И улыбнулся: «Ну, что ж,
У нас зацвели асфодели,
А ты все еще здесь живешь?
Когда ж соберешься в гости
Надолго к нам?..»
И флейту свою из кости
К моим приложил губам.
Губы мои побледнели
С этого самого дня.
Только бы там асфодели
Не отцвели без меня!
ĐÂU MINH THẦN
Đâu Minh thần, tên được đặt cho tôi
Dấu hiệu của tôi trong ngày tháng cũ
Những cánh đồng nào có hoa tím nở
Đã chạm lên bằng đôi cánh của ngươi?
Và trong đôi mắt ai
Ngươi lại thắp lên ngọn lửa
Và trong đôi tay ai
Phấp phới lá cờ mà ngươi đã mở?
Và bằng giọng nói của mình
Những miệng nào nói ra lời cay đắng?
Giờ ngươi dẫn dắt ai, làm cho nổi tiếng?
Xin hãy nói cùng tôi, hở Minh thần.
Và linh hồn nào đi theo đường quen
Của một trò chơi nhức nhối?
Vì ngươi từng đốt thành phố Sodom*
Bằng lửa cuối!
1925
____________
*Sodom là một trong hai thành phố (Sodom và Gomorrah), theo Kinh Thánh, bị Chúa Trời hủy diệt vì tội trác táng (quan hệ tình dục trái với tự nhiên).
Где Херувим, свое мне давший имя
Где Херувим, свое мне давший имя,
Мой знак прошедших дней?
Каких фиалковых полей
Касаешься крылами ты своими?
И в чьих глазах
Опять зажег ты пламя,
И в чьих руках
Дрожит тобой развернутое знамя?
И голосом твоим
Чьи говорят уста, спаленные отравой?
Кого теперь, кого ведешь за славой?
Скажи мне, Херувим.
И чья душа идет путем знакомым
Мучительной игры?
Ведь это ты зажег у стен Содома
Последние костры!