Hơn 40 Blog. Hơn 300 Nhà thơ nổi tiếng Thế giới và những Lời chúc – Giai thoại – Chuyện tình hay nh

Thứ Tư, 8 tháng 2, 2017

Thơ Rasul Gamzatov - Raxun Gamdatốp -


Rasul Gamzatovich Gamzatov (tiếng Nga: Расу́л Гамза́тович Гамза́тов; tiếng Avar: Расул Xiамзатов, 8 tháng 9 năm 1923 – 3 tháng 11 năm 2003) – nhà thơ nổi tiếng thế giới của dân tộc Avar, thi hào dân tộc Daghestan, anh hùng lao động Liên Xô (1974), giải thưởng Lenin (1963), giải thưởng Stalin (1959).

Tiểu sử:
Rasul Gamzatov sinh tại làng Tsada, huyện Khunzakhsky, Daghestan. Bố là nhà thơ Gamzat Tsadasa (1877 – 1951). Từ nhỏ đã được bố đọc thơ và kể cho nghe nhiều huyền thoại của núi đồi làm cho Rasul say đắm. Học phổ thông ở Daghestan, tốt nghiệp trường trung cấp sư phạm Avar năm 1939 và làm giáo viên đến năm 1941, sau đó làm phó đạo diễn nhà hát, nhà báo ở các báo và đài địa phương. Từ năm 1945 đến 1950 học trường viết văn Maxim Gorky ở Moskva.

Rasul Gamzatov được bầu làm đại biểu Xô Viết tối cao rồi phó chủ tịch Xô Viết tối cao nước cộng hòa Daghestan. Sau đó được bầu làm đại biểu Xô Viết tối cao và thành viên Đoàn chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô. Trong thời gian hàng chục năm liền ông là đại biểu của các kỳ Đại hôi Hội nhà văn Daghestan, Nga và Liên Xô, là thành viên của Hội đoàn kết các nhà văn Á-Phi, thành viên Hội đồng Giải thưởng Lenin và Giải thưởng Nhà nước Liên Xô, thành viên Hội đồng bảo vệ hòa bình thế giới, Phó chủ tịch Hội đồng đoàn kết các dân tộc Á-Phi của Liên Xô. Thành viên Hội đồng biên tập của những tờ báo và tạp chí văn học nổi tiếng nhất của Liên Xô và Nga.

Rasul Gamzatov bắt đầu làm thơ từ năm 1932 (lên chín tuổi) và bắt đầu in thơ từ năm 1937 ở báo “Người Bôn-sê-vích của núi đồi” (Большевик гор). Quyển thơ đầu tiên bằng tiếng Ava in năm 1943. Rasul cũng dịch thơ Pushkin, Lermontov, Maiakovsky, Esenin và nhiều nhà thơ Nga khác ra tiếng Ava.

Rất nhiều bài thơ của ông được các nhạc sĩ phổ nhạc trở thành những bài hát nổi tiếng. Hàng chục quyển thơ, văn của ông được in bằng tiếng Ava, tiếng Nga và nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới, trong đó có tiếng Việt. Thơ Rasul Gamzatov bằng tiếng Việt có các bản dịch của Thái Bá Tân, Thúy Toàn, Hồ Thượng Tuy và Nguyễn Viết Thắng. Bản của Hồ Thượng Tuy có 467 bài đã dịch ra tiếng Việt. 

Toàn bộ sáng tạo của Rasul Gamzatov là một cuốn sách của trí tuệ và lòng dũng cảm, của tình yêu và nỗi đau, của lời nguyền rủa và lời nguyện cầu, của lòng tin và chân lý, của khoảnh khắc và thế kỷ. Rasul Gamzatov mãi mãi là một nhà nhân văn lớn. Thơ ông là tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu mặt đất này và cả thế giới, ông đấu tranh không khoan nhượng với cái ác, cái thấp hèn trên mặt đất này.

Rasul Gamzatov mất ngày 3 tháng 11 năm 2003 ở Moskva, mai táng tại nghĩa trang Hồi giáo Makhachkala, bên cạnh mộ vợ ông.

Tác phẩm:
* 1943 Сборник стихов «Пламенная любовь и жгучая ненависть»
* «Наши горы» 1947
* Р. Гамзатов. ЗЕМЛЯ МОЯ. Стихи. Перевод Н. Гребнева, Я. Козловского. Даггосиздат 1948
* Р. Гамзатов. ПЕСНИ ГОР. Перевод Н. Гребнева, Я. Козловского, В.Бахнова. Молодая гвардия, М., 1948.
* 1950 Сборник «Родина горца»
.....................................
............................................




BÀI CA

Những ngày nắng không còn
Chim bay về phía biển
Chỉ còn em và anh
Nối đuôi nhau ngày tháng. 

Anh và em, hai người
Chỉ hai ta còn lại
Em yêu quí nhất đời
Anh yêu em nhường ấy!

Anh nhìn mái tóc em
Như chưa từng được ngắm..
Lông tơ trắng của chim
Vào tóc đen đã bám… 

Dù trên mái tóc anh
Tuyết nằm, không tan chảy..
Nhưng em yêu của anh
Đẹp nhất, như ngày ấy. 

Màu sắc của mùa xuân
Và đàn chim trở lại.
Nhưng màu của tóc mình
Cùng xuân không quay lại. 

Ta cười với mặt trời
Và nổi đau còn lại..
Em yêu quí nhất đời
Anh yêu em nhường ấy.


Песня

Исчезли солнечные дни,
И птицы улетели,
И вот одни проводим мы
Неделю за неделей.

Вдвоем с тобой, вдвоем с тобой
Остались ты да я...
Любимая, любимая,
Бесценная моя!

На косы вновь твои смотрю,
Не налюбуюсь за день...
Птиц улетевших белый пух
Пристал к отдельным прядям...

Пусть у меня на волосах
Лежит, не тая, снег...
Но ты, моя бесценная,
Как прежде, лучше всех.

Все краски вешние неся,
Вернутся снова птицы.
Но цвет волос, но цвет волос
С весной не возвратится.

И солнцу улыбнемся мы,
Печали не тая..
Любимая, любимая,
Бесценная моя.


ĐÀN SẾU

Tôi cứ ngỡ biết bao người lính trẻ
Từ chiến trường xưa đẫm máu không về
Không phải họ nằm yên trong đất mẹ
Mà hóa thành sếu trắng giữa trời kia.

Sếu vẫn bay như thế tự ngày xưa
Bay đến bây giờ, và cất tiếng gọi.
Có phải thế mà ta thường buồn bã
Rồi lặng im, ngó vào giữa trời xa? 

Và hôm nay đây, trong buổi chiều tà
Tôi nhìn thấy trong màn sương đàn sếu
Sải cánh bay theo đội hình chiến đấu
Như ngày nào giàn trận giữa đồng xa. 

Sếu vẫn bay trên những chặng đường xa
Và cất tiếng gọi những tên ai đấy
Vì thế chăng mà tiếng kêu đàn sếu
Tự bao đời giống với tiếng Ava? 

Đội hình bay mệt mỏi giữa bầu trời
Trong màn sương, buổi hoàng hôn ráng đỏ
Trong đội hình kia hãy còn khoảng nhỏ
Có thể là đấy chỗ để dành tôi! 

Rồi sẽ đến một ngày, tôi sẽ bơi
Cùng đàn sếu trong màn sương như vậy
Bằng giọng sếu, giữa trời cất tiếng gọi
Tất cả những ai còn sống trên đời.


Журавли 

Мне кажется порою, что солдаты, 
С кровавых не пришедшие полей, 
Не в землю эту полегли когда-то, 
А превратились в белых журавлей. 

Они до сей поры с времен тех дальних 
Летят и подают нам голоса. 
Не потому ль так часто и печально 
Мы замолкаем, глядя в небеса? 

Сегодня, предвечернею порою, 
Я вижу, как в тумане журавли 
Летят своим определенным строем, 
Как по полям людьми они брели. 

Они летят, свершают путь свой длинный 
И выкликают чьи-то имена. 
Не потому ли с кличем журавлиным 
От века речь аварская сходна? 

Летит, летит по небу клин усталый - 
Летит в тумане на исходе дня, 
И в том строю есть промежуток малый - 
Быть может, это место для меня! 

Настанет день, и с журавлиной стаей 
Я поплыву в такой же сизой мгле, 
Из-под небес по-птичьи окликая 
Всех вас, кого оставил на земле.


NẾU TRONG ĐỜI CÓ MÔT NGHÌN ĐÀN ÔNG

Nếu trong đời có một nghìn đàn ông 
Nhờ mối mai trước nhà em tập hợp 
Hãy nhớ rằng trong một nghìn đàn ông 
Có tên anh – Rasul Gamzatov. 

Nếu từ lâu đã yêu em say đắm 
Đứng trước nhà một trăm kẻ đàn ông 
Trong số họ có một người trông ngóng 
Người miền rừng có tên gọi: Rasul. 

Nếu yêu em chỉ còn lại mười người 
Đứng trong hàng nóng lòng như lửa đốt 
Có một kẻ vừa buồn khổ, vừa vui 
Đó là anh – Rasul Gamzatov. 

Nếu yêu em tất cả còn chỉ một 
Kẻ điên cuồng, thề thốt mãi tình chung 
Thì kẻ đó từ đỉnh cao chót vót 
Người miền rừng có tên gọi: Rasul. 

Còn nếu như em cô đơn buồn khổ 
Không còn ai yêu nữa buổi hoàng hôn 
Thì nghĩa là chốn cao nguyên đất đỏ 
Trên núi cao Gamzatov không còn.


Если в мире тысяча мужчин 

Если в мире тысяча мужчин 
Снарядить к тебе готовы сватов, 
Знай, что в этой тысяче мужчин 
Нахожусь и я – Расул Гамзатов. 

Если пленены тобой давно 
Сто мужчин, чья кровь несется с гулом, 
Разглядеть меж них не мудрено 
Горца, нареченного Расулом. 

Если десять влюблены в тебя 
Истинных мужей, огня не спрятав, 
Среди них, ликуя и скорбя, 
Нахожусь и я – Расул Гамзатов. 

Если без ума всего один 
От тебя, не склонная к посулам, 
Знай, что это – с облачных вершин 
Горец, именуемый Расулом. 

Если не влюблен в тебя никто 
И грустней ты сумрачных закатов, 
Значит, на базальтовом плато 
Погребен в горах Расул Гамзатов.


MẸ

Tiếng Nga “Mama”, tiếng Gruzia “Nana”
Tiếng Avar – thật trìu mến “Baba”
Từ ngàn lời khắp năm châu bốn bể
Số phận rất đặc biệt của lời này.

Là lời đầu tiên từ thuở trong nôi
Lời này đã đi theo vòng của khói
Trên môi người lính trong giờ phút cuối
Tiếng cuối cùng vang vọng mãi không thôi.

Không có bóng tối ở trên lời này
Dù im lặng, có lẽ là vì thế
Những lời khác, khi người ta quì gối
Là để mong thú tội cho người này. 

Nước nguồn khi đựng ở trong chiếc bình
Cũng thì thầm lời này vì có lẽ
Nước nguồn nhớ về đỉnh cao của núi
Bởi núi vốn là mẹ của nước nguồn.

Khi tia chớp xuyên qua đám mây đen
Tôi lắng nghe sau tiếng mưa đổ xuống
Khi những giọt nước vào đất đã ngấm
Lời này vẫn không ngừng tiếng ngân vang. 

Tôi bí mật thở dài khi đau khổ
Giấu nước mắt giữa ánh sáng ban ngày:
“Mẹ đừng lo – tôi nói với mẹ tôi –
Mọi công việc của con đều ổn cả”. 

Về đứa con, mẹ thường xuyên lo lắng
Mẹ nô lệ của tình cảm bao la.
Tiếng Nga “Mama”, tiếng Gruzia “Nana”
Tiếng Avar – “Baba” vô cùng trìu mến. 

Мама

По-русски «мама», по-грузински «нана»,
А по-аврски — ласково «баба».
Из тысяч слов земли и океана
У этого — особая судьба.

Став первым словом в год наш колыбельный,
Оно порой входило в дымный круг
И на устах солдата в час смертельный
Последним звоном становилось вдруг.

На это слово не ложатся тени,
И в тишине, наверно, потому
Слова другие, преклонив колени,
Желают исповедаться ему.

Родник, услугу оказав кувшину,
Лепечет это слово оттого,
Что вспоминает горную вершину —
Она прослыла матерью его.

И молния прорежет тучу снова,
И я услышу, за дождем следя,
Как, впитываясь в землю, это слово
Вызванивают капельки дождя.

Тайком вздохну, о чем-нибудь горюя,
И, скрыв слезу при ясном свете дня:
«Не беспокойся, — маме говорю я, —
Все хорошо, родная. у меня».

Тревожится за сына постоянно,
Святой любви великая раба.
По-русски «мама», по-грузински «нана»
И по-аварски — ласково «баба».

Xem 621 bài thơ GAMZATOV:


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét